TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế - xã hội, tháng 9 và 9 tháng năm 2023 tỉnh Bình Thuận

Kinh tế - xã hội 9 tháng năm 2023 dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh tiếp tục chuyển biến tích cực.

Trong lĩnh vực nông nghiệp không để xảy ra dịch bệnh lớn trên cây trồng, vật nuôi; sản lượng thịt hơi xuất chuồng tăng 14,39%; sản lượng thủy sản khai thác tăng 2,64% so với cùng kỳ. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP) được quan tâm chỉ đạo. Lĩnh vực công nghiệp, các doanh nghiệp đã nỗ lực khắc phục khó khăn về nguồn nguyên, vật liệu, thị trường tiêu thụ, tập trung đẩy mạnh sản xuất ngay từ đầu năm. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ tăng 29,78%; tổng lượng khách du lịch tăng 75,8%; doanh thu từ hoạt động du lịch tăng 1,92 lần; vận chuyển hàng hóa tăng 17,56%; vận chuyển hành khách tăng 35,22%; doanh thu vận tải tăng 43,78%. Chất lượng các hoạt động văn hóa - xã hội tiếp tục được nâng lên; các chính sách an sinh xã hội được thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) quý III/2023 dự ước tăng 7,49% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2023 ước tăng 7,68% so với cùng kỳ; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,03%; khu vực công nghiệp xây dựng tăng 7,07% (trong đó công nghiệp tăng 6,32%); khu vực dịch vụ tăng 13,25%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm giảm 0,63%.

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Hoạt động sản suất nông nghiệp trong tháng 9 và 9 tháng năm 2023 thuận lợi do nguồn nước tưới được đảm bảo; diện tích gieo trồng cây hàng năm tăng khá; giá lúa tăng cao do nguồn cung đứt gãy ở một số thị trường xuất khẩu lúa, gạo lớn như Ấn Độ, Thái Lan. Chăn nuôi và khai thác thủy sản tiếp tục ổn định. Liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp còn khó khăn, bất cập. Ứng dụng khoa học công nghệ, cơ giới hóa vào sản xuất, phát triển các sản phẩm nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn hạn chế so với yêu cầu. Tôm nuôi thương phẩm và sản xuất tôm giống gặp khó do tình hình xuất khẩu tôm các nước gặp nhiều khó khăn. Vẫn còn tàu cá, ngư dân đánh bắt hải sản vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ, làm ảnh hưởng đến nỗ lực chung chống khai thác IUU của tỉnh.

1. Trồng trọt

1.1. Cây hàng năm

- Sản xuất vụ đông xuân 2023 thời tiết thuận lợi, chủ động và cân đối được nguồn nước phục vụ cho sản xuất; người dân chuẩn bị tốt các khâu về đất, giống để gieo trồng tập trung, hạn chế thiệt hại trong sản xuất, thời gian xuống giống đảm bảo đúng lịch thời vụ, tăng cường theo dõi, kiểm tra, kiểm soát việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tại các vùng trồng.

Diện tích gieo trồng cây vụ đông xuân chính thức đạt 50.628,7 ha, giảm 0,8% so với vụ cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây lương thực có hạt đạt 42.762,6 ha, tăng 0,7% so với vụ cùng kỳ năm trước; năng suất cây lương thực đạt 68,7 tạ/ha, giảm 0,1 tạ/ha; sản lượng lương thực đạt 289.897,6 tấn, tăng 0,6% so với vụ cùng kỳ năm trước (cây lúa diện tích đạt 39.408,6 ha, giảm 0,1%; năng suất đạt 66,9 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; sản lượng đạt 263.468,1 tấn, giảm 0,1%. Cây bắp diện tích đạt 3.354 ha, tăng 11,5%; năng suất đạt 78,8 tạ/ha, giảm 2,5 tạ/ha; sản lượng đạt 26.429,5 tấn, tăng 8,1%). Diện tích cây lúa giảm nhẹ (giảm 560 ha) ở huyện Bắc Bình do thi công tuyến đường cao tốc đi qua các xã có diện tích lớn như Bình An, Phan Hòa, Hải Ninh, Sông Lũy, Bình Tân); diện tích, sản lượng cây bắp tăng do được giá nông dân đã chuyển đổi từ diện tích lúa không hiệu quả san trong bắp khoảng 275 ha ở huyện Tánh Linh.

- Sản xuất vụ hè thu 2023 sơ bộ diện tích đạt 63.312,3 ha, tăng 4,1% so với vụ cùng kỳ năm trước (tăng 2,52 nghìn ha; diện tích tăng chủ yếu diện tích lúa ở huyện Đức Linh và Tánh Linh; tăng do thời tiết thuận lợi, giá lúa đang có xu hướng tăng, nông dân tích cực xuống giống tăng diện tích gieo trồng trong vụ), trong đó diện tích cây lương thực có hạt đạt 47.344,7 ha, tăng 4,5%; năng suất đạt 60 tạ/ha, tăng 0,2 tạ/ha; sản lượng lương thực đạt 284.000 tấn, tăng 4,8% so với vụ cùng kỳ năm trước (cây lúa diện tích đạt 40.841 ha, tăng 6,1%; năng suất đạt 59,7 tạ/ha, tương đương so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 244.000 tấn, tăng 6,3%. Cây bắp diện tích đạt 6.503,7 ha, giảm 4,9%; năng suất đạt 61,5 tạ/ha, tăng 1,5 tạ/ha; sản lượng đạt 40.000 tấn, giảm 3,4%).

- Sản xuất vụ mùa 2023 gặp một số khó khăn cục bộ về thời tiết, mưa lũ ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng. Tính đến ngày 15/9/2023 diện tích vụ mùa xuống giống đạt 39.076,2 ha, giảm 6,7% so với vụ mùa 2022 (giảm chủ yếu ở diện tích lúa của huyện Tánh Linh do ảnh hưởng mưa lũ một số diện tích phải gieo sạ nhiều lần nên thời gian của vụ kéo dài trên 4 tháng, dẫn đến vụ mùa năm 2023 xuống giống muộn hơn so với vụ mùa năm 2022), trong đó: cây lúa đạt 19.919 ha, giảm 11,2%; cây bắp đạt 1.444,4 ha, giảm 31,2%; rau các loại đạt 1.28 1ha, giảm 3,4%; đậu các loại đạt 1.311,9 ha, giảm 5,6%.

- Dự ước 9 tháng (đông xuân + hè thu) diện tích gieo trồng đạt 113.940,9 ha, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước (tăng 2.115,3 ha; diện tích tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung vào các cây như lúa, ngô; tăng chủ yếu ở vụ hè thu giá lúa tăng cao huyện Đức Linh xuống giống tăng cao so với cùng kỳ năm trước), trong đó:

+ Nhóm cây lương thực có hạt đạt 90.107,3 ha, tăng 2,6% (tăng 2.319,3 ha) so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 573.898 tấn, tăng 2,6% so với cùng kỳ (cây lúa diện tích đạt 80.249,6 ha, tăng 3%; sản lượng lúa 570.406,8 tấn, tăng 2,9%. Cây bắp diện tích đạt 9.857,7 ha, tăng 0,1%; sản lượng đạt 66.429,5 tấn, tăng 0,8%).

+ Nhóm cây công nghiêp ngắn ngày: diện tích đậu phộng đạt 3.684,1 ha, giảm 15% so với vụ cùng kỳ; sản lượng đạt 7.668,1 tấn, giảm 12,5% so với cùng kỳ. Diện tích mè đạt 4.246,6 ha, giảm 1,6 % so với cùng kỳ; sản lượng đạt 2.632,7 tấn, giảm 1% so với cùng kỳ năm trước.

+ Cây rau, đậu, hoa các loại: diện tích gieo trồng đạt 13.558 ha, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó rau các loại diện tích đạt 7.152,6 ha, giảm 0,3%; sản lượng đạt 89.197,1 tấn, tăng 12,5% so với cùng kỳ. Diện tích cây đậu đạt 6.322,4 ha, giảm 2,6% so với cùng kỳ, nguyên nhân do cây đậu trong vụ hè thu mưa nhiều nông dân ít xuống giống.

+ Nhóm cây hàng năm khác: diện tích gieo trồng đạt 1.538,8 ha, tăng 22,2% so cùng kỳ năm trước; tăng mạnh ở các cây như ớt, gừng, sả, cỏ voi được người dân tích cực gieo trồng và chăm sóc.

 

Biểu đồ diện tích gieo trồng cây hàng năm 9 tháng năm 2023

 

- Nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, trong 9 tháng toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi 3.982 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn như bắp 1.142 ha, rau 999 ha, đậu các loại 705 ha, đậu phộng 638 ha, dưa hấu 188 ha, cây trồng khác 310 ha; tập trung chủ yếu tại các huyện Tánh Linh 1.835 ha, Đức Linh 1.510 ha, Hàm Thuận Bắc 576 ha và Bắc Bình 61 ha.

Chương trình xã hội hoá giống lúa được chú trọng triển khai, trong vđông xuân và hè thu năm 2023, toàn tỉnh thực hiện được 1.259 ha. Các mô hình liên kết sản xuất được quan tâm thực hiện; diện tích liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đạt 4.765 ha (trong đó liên kết chuỗi trong sản xuất lúa 4.400 ha, liên kết chuỗi trong sản xuất cây bắp, mè, rau, đậu các loại 365 ha); duy trì ổn định diện tích lúa chất lượng cao 3.000 ha tại huyện Tánh Linh; thực hiện 05 mô hình vùng lúa thương phẩm chất lượng cao tại 05 huyện gồm Đức Linh, Tánh Linh, Bắc Bình, Tuy Phong và Hàm Thuận Bắc, với quy mô 5.000 m2/ mô hình.

* Tình hình dịch bệnh trên các loại cây trồng: Công tác dự báo tình hình sâu bệnh được thực hiện thường xuyên; sâu bệnh xuất hiện và gây hại trên cây trồng như sau:

+ Cây lúa diện tích nhiễm rầy nâu 333 ha (tăng 216 ha so cùng kỳ); bệnh đạo ôn lá 1.071 ha (giảm 64 ha so cùng kỳ); sâu đục thân 547 ha (giảm đáng kể so cùng kỳ năm 2022; tuy nhiên ảnh hưởng lớn đến năng suất lúa vì diện tích gây hại nặng vào giai đoạn đòng trổ là chủ yếu); chuột gây hại trên lúa 310 ha (giảm 95 ha so cùng kỳ).

+ Cây thanh long, diện tích nhiễm bệnh đốm nâu 3.675 ha (giảm 1.426 ha so cùng kỳ) chủ yếu là nhiễm nhẹ; diện tích nhiễm bệnh vàng cành 1.312 ha (giảm 943 ha so cùng kỳ).

+ Cây mỳ diện tích nhiễm bệnh khảm lá virus 417 ha (giảm 699 ha so cùng kỳ); các loài sâu bệnh hại trên cây trồng khác xuất hiện và gây hại với mật độ thấp.

Để hỗ trợ phòng trừ sâu bệnh trên cây trồng ở địa phương; từ đầu năm đến nay, cơ quan chuyên môn đã tổ chức 12 lớp tập huấn cho 480 lượt nông dân tham dự về biện pháp phòng trừ sâu bệnh trên cây lúa, bắp, mì; thực hiện 02 mô hình quản lý sâu keo mùa thu trên cây bắp, 04 mô hình quản lý chuột hại lúa, 02 mô hình quản lý bệnh khảm lá virus trên cây khoai mì.

1.2. Cây lâu năm

Sản xuất cây lâu năm 9 tháng chủ yếu tập trung vào khâu chăm sóc và thu hoạch trên diện tích hiện có. Dự ước 9 tháng diện tích trồng cây lâu năm đạt 107.663,4 ha, tăng 0,7% (tăng 789,7 ha) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây công nghiệp đạt 66.921,4 ha, tăng 0,2% (tăng 106,7 ha); cây ăn quả đạt 40.065 ha, tăng 1,8% (tăng 726 ha); các loại cây lâu năm khác đạt 647 ha, giảm 6,2% (giảm 43 ha); diện tích, sản lượng một số cây trồng chính như sau:

- Thanh long diện tích ước đạt 27.320 ha, giảm 1,7% (giảm 467,7 ha) so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm ở các huyện: Hàm Thuận Nam 247 ha; Bắc Bình 156 ha ha; La Gi 138,4 ha; Phan Thiết 11 ha;... do ảnh hưởng giá bán giảm trong thời gian dài, trong khi chi phí lao động, phân bón ngày càng tăng, sản phẩm thu hoạch có lúc không người mua, người trồng thanh long không có lợi nhuận dẫn đến phá bỏ chuyển sang trồng cây khác hoặc bỏ hoang diện tích (giảm mạnh nhất vào 6 tháng cuối năm 2022). Tuy nhiên, từ khi Trung Quốc mở cửa, giá bán thanh long trong 9 tháng năm 2023 nhìn chung ổn định (có lúc tăng cao), nhiều vườn thanh long đẩy mạnh chong đèn, sản lượng ước đạt 453.000 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm trước (sản lượng tăng do năm nay giá cao nên người dân chong đèn nhiều, mặc dù diện tích giảm; cùng thời điểm năm ngoái hầu như không chong đèn, sản lượng thấp).

Đến thời điểm 15/9/2023, toàn tỉnh có 8.610,1 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap (trong đó huyện: Hàm Thuận Nam 6.908,3 ha; Hàm Thuận Bắc 1.024,7 ha; Bắc Bình 303,2 ha; Phan Thiết 97 ha; Tuy Phong 106,5; Hàm Tân 91,3 ha; La Gi 79 ha).

- Cây điều diện tích ước đạt 17.820 ha, giảm 2,6% (giảm 480 ha) so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm nhiều nhất ở huyện Đức Linh giảm 375 ha chuyển sang trồng tràm và các loại cây ăn quả khác. Ngoài ra, nguyên nhân giảm do một số diện tích người dân trồng xen cây ăn quả, đến khi cây lớn chặt bỏ diện tích điều để cây phát triển. Huyện Bắc Bình giảm 105 ha (giảm ở xã Hòa Thắng và xã Phan Rí Thành), do diện tích trồng trên đất cát bạc màu, lão hóa, năng suất thấp người dân chặt bỏ; các huyện còn lại diện tích không có nhiều thay đổi. Sản lượng ước đạt 12.900 tấn, giảm 3,9% (giảm 522 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Cao su diện tích ước đạt 45.220 ha, tăng 2,3% (tăng 1.001 ha) so với cùng kỳ năm trước, diện tích tăng ở các huyện: Tánh Linh 1.036 ha (Công ty cao su Bình Thuận trồng ở địa bàn xã Gia Huynh); Đức Linh 95,1 ha (người dân chuyển diện tích điều không hiệu quả sang); Hàm Tân giảm 99 ha (do già cỗi chuyển sang trồng cây khác); La Gi giảm 21 ha (do điều kiện không phù hợp chuyển đổi cây trồng khác thích hợp hơn); các huyện còn lại diện tích không có nhiều biến động. Trong 9 tháng năm 2023 thị trường xuất khẩu cao su chưa có dấu hiệu khả quan. Sản lượng thu hoạch ước đạt 41.000 tấn, tăng 2,2% (tăng 900 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Cây sầu riêng diện tích ước đạt 2.676,6 ha, tăng 41,6% so với cùng kỳ năm trước (tăng 786,6 ha), trong đó: huyện Đức Linh tăng 316 ha; huyện Hàm Thuận Bắc tăng 308,8 ha; huyện Hàm Thuận Nam tăng 155,5 ha; nguyên nhân tăng do nhu cầu thị trường Trung Quốc tiêu thụ mạnh, giá đầu ra tăng đột biến, một số vùng có khí hậu thích hợp người dân chuyển đổi một số loại cây không hiệu quả sang trồng sầu riêng. Sản lượng thu hoạch ước đạt 4.250 tấn, tăng 19% so với cùng kỳ năm trước (tăng 680 tấn).

- Cây tiêu diện tích ước đạt 1.027,1 ha, giảm 0,1% (giảm 1,1 ha) so với cùng kỳ năm trước. Do giá không ổn định, sâu bệnh thường xuyên xuất hiện gây hại người dân ngại đầu tư. Sản lượng thu hoạch ước đạt 1.400 tấn, giảm 3,8% (giảm 55,9 tấn) so với cùng kỳ năm trước.

- Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,...

1.3. Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất

Các công trình thủy lợi trên địa bàn tỉnh thực hiện các biện pháp tích trữ và phân phối nguồn nước trong các hệ thống công trình thủy lợi hợp lý; tận dụng nguồn nước chạy máy phát điện kết hợp cấp nước về hạ du của thủy điện Đại Ninh và Hàm Thuận - Đa Mi trữ vào các hồ chứa, ao bàu, kênh trục lớn; đảm bảo cung ứng đủ lượng nước thô cấp cho các nhà máy nước đô thị, các công trình cấp nước tập trung khu vực nông thôn và cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong 9 tháng năm 2023, diện tích tưới lúa, hoa màu thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh đạt 81.554 ha, đạt 86,8% kế hoạch; diện tích tưới cây thanh long và cây ăn quả 19.668 ha, đạt 94,5% kế hoạch; diện tích cấp nước nuôi trồng thủy sản 411 ha, đạt 100% kế hoạch. Tổng lượng nước thô cung cấp phục vụ sinh hoạt từ đầu năm đến nay đạt 30 triệu m3; ước 9 tháng đạt 33,07 triệu m3, đạt 85,5% kế hoạch.

 Tình hình nguồn nước, đến ngày 08/9/2023, lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh đạt 249 triệu m3 (đạt 68,2%), cao hơn 47,5 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước, trong đó hồ chứa Đại Ninh 127,1 triệu m3 (đạt 50,5%), cao hơn 65,6 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước; hồ chứa Hàm Thuận - Đa Mi 483,4 triệu m3 (đạt 92,5%), cao hơn 276,9 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước.

1.4. Công tác ứng dụng khoa học - công nghệ và khuyến nông vào sản xuất

Ngành chức năng theo dõi và tổ chức nghiệm thu các mô hình từ năm 2022 chuyển sang: mô hình thâm canh cây thanh long đạt tiêu chuẩn GlobalGAP theo liên kết chuỗi với quy mô 14 ha, kết quả năng suất đạt 25,1 tấn/ha, tăng 12,4% so với sản xuất đại trà; mô hình thâm canh sầu riêng đạt tiêu chuẩn VietGAP theo liên kết chuỗi với quy mô 14 ha, kết quả năng suất bình quân đạt 20 tấn/ha, lợi nhuận trên 700 triệu/ha; mô hình nuôi cá bớp trên biển bằng lồng bè HDPE với quy mô 512 m3, cá đạt tỷ lệ sống 65%, trọng lượng 4,5kg/con,... Đã thực hiện và được cấp quyết định công nhận lưu hành 02 giống lúa ML214 và ML48; sản xuất và cung ứng 130 tấn lúa giống và 2.000 cây ăn quả các loại, 160 con lợn giống chất lượng tốt phục vụ cho chương trình giống của tỉnh.

1.5. Công tác quản lý chất lượng an toàn thực phẩm, vật tư nông nghiệp

Công tác tuyên truyền nâng cao ý thức với tăng cường thanh, kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, chất kích thích, kháng sinh, hóa chất thuộc danh mục cấm trong bảo quản nguyên liệu, sản phẩm nông, thủy sản được đẩy mạnh. Ngành chức năng tổ chức thẩm định điều kiện sản xuất, kinh doanh an toàn thực phẩm (ATTP) 736 cơ sở, đạt điều kiện 100%; thẩm định, cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện buôn bán cho 285 cơ sở buôn bán phân bón, thuốc BVTV trên địa bàn tỉnh; thực hiện thanh, kiểm tra 605 cơ sở, qua đó xử phạt 48 cơ sở vi phạm (lĩnh vực ATTP thanh tra 80 cơ sở, xử phạt vi phạm hành chính 25 cơ sở; lĩnh vực VTTN thanh, kiểm tra 525 cơ sở kinh doanh phân bón, thuốc BVTV và thuốc thú y, xử phạt 23 cơ sở). Tổ chức thực hiện ký cam kết sản xuất, kinh doanh thực phẩm an toàn cho 2.781 cơ sở, hộ (gồm 1.147 hộ chăn nuôi, 1.586 hộ trồng trọt, 04 hộ nuôi trồng thủy sản, 01 tàu cá, 21 hộ sơ chế nhỏ lẻ, 22 hộ kinh doanh nhỏ lẻ, sản phẩm bao gói sẵn). Tiếp tục hỗ trợ 03 cơ sở (02 nông sản, 01 thủy sản) chứng nhận chương trình quản lý chất lượng tiên tiến HACCP.

2. Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi trong 9 tháng trong điều kiện thuận lợi; chăn nuôi bò ổn định; chăn nuôi lợn có dấu hiệu khả quan do giá thức ăn đã hạ nhiệt; chăn nuôi gia cầm phát triển khá do tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Toàn tỉnh có 8.350 con trâu, giảm 1,2% so với cùng kỳ; 179.500 con bò, tăng 2,7%; 379.000 con lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 8,9%; và 6.594 ngàn con gia cầm, tăng 1,2% (trong đó đàn gà 5.300 ngàn con, tăng 0,9%). Sản lượng sản phẩm chăn nuôi 9 tháng đạt 71.177 tấn, tăng 14,39% so với cùng kỳ năm trước.

 

 

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật: Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò; bệnh lở mồm long móng ở gia súc; bệnh tai xanh trên heo; một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ nhỏ không lây lan thành dịch.

- Công tác tiêm phòng vắc xin trong tháng 9 đã tổ chức tiêm phòng 1.822,1 ngàn liều (trong đó trâu, bò 40,4 ngàn liều; lợn 26,7 ngàn liều và gia cầm 1.755,0 ngàn liều). Lũy kế 9 tháng năm 2023 đã tiêm phòng 17.081,8 ngàn liều (trong đó trâu, bò 384,2 ngàn liều; lợn 376,8 ngàn liều và gia cầm 16.320,8 ngàn liều).

- Kiểm dịch động vật trong tháng 9 đã kiểm dịch 109,2 ngàn con lợn; 1,1 ngàn con trâu bò; 297,8 ngàn con gia cầm; 536 tấn thịt các loại; 3,6 triệu quả trứng gia cầm; 33,1 tấn thịt sơ chế. Lũy kế 9 tháng năm 2023 đã kiểm dịch 1.199,2 ngàn con lợn; 6,8 ngàn con trâu bò; 3.516,9 ngàn con gia cầm; 3,3 ngàn tấn thịt các loại; 23,7 triệu quả trứng gia cầm; 287,2 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ trong tháng 9 kiểm soát giết mổ 335 con trâu bò; 3,9 ngàn con lợn; 1,1 ngàn con gia cầm; 151 con dê. Lũy kế 9 tháng năm 2023 kiểm soát 2,6 ngàn con trâu bò; 34,6 ngàn con lợn; 10,2 ngàn con gia cầm; 1.070 con dê.

3. Lâm nghiệp

- Diện tích rừng trồng mới trong tháng ước đạt 846 ha, tương đương so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2023 trồng được 2.867 ha, tăng 0,62% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng gỗ khai thác 9 tháng đạt 176,7 nghìn m3, tăng 1,43% so với cùng kỳ năm trước.

- Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng trong tháng được các đơn vị chủ rừng tập trung thực hiện tốt. Lũy kế 9 tháng năm 2023 toàn tỉnh đã xảy ra 14 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng với diện tích 16,5 ha (tăng 09 trường hợp so cùng kỳ), các trường hợp cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng trong 9 tháng, ngành chức năng phối hợp với các địa phương tập trung triển khai hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét các vùng trọng điểm; chú trọng theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh, để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm luật lâm nghiệp góp phần ổn định tình hình. Lũy kế 9 tháng năm 2023, đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 215 vụ vi phạm; quyết định khởi tố hình sự 05 vụ, xử phạt vi phạm hành chính 173 vụ; tịch thu 142,97 m3 gỗ các loại. Toàn tỉnh xảy ra 22 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 6,29 ha.

4. Thuỷ sản

- Diện tích nuôi trồng thủy sản trong tháng ước đạt 248,6 ha, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 2.305,1 ha, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước (trong đó diện tích nuôi cá 1.758,4 ha, giảm 8,9%; diện tích nuôi tôm 466,1 ha, giảm 3,9,8%).

- Sản lượng nuôi trồng trong tháng 9, do tình hình nuôi thủy sản không ổn định, giá tôm thương phẩm giảm trong 6 tháng đầu năm, các hộ nuôi hạn chế thả giống làm giảm sản lượng thu hoạch. Sản lượng nuôi trồng trong tháng 9 ước đạt 1.327,5 tấn; lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 7.760,8 tấn, giảm 13,41% so với cùng kỳ năm trước (trong đó cá các loại ước đạt 4.215,4 tấn, giảm 17,4; tôm nuôi nước lợ ước đạt 3.445,9 tấn, giảm 9,3%; thủy sản khác 99,5 tấn tăng 58,7%).

- Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 9 ước đạt 21.339 tấn, tăng 2,4% so với cùng kỳ (trong đó khai thác biển ước đạt 21.280 tấn, tăng 2,4%). Lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 175.887,1 tấn, tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước đạt 175.462,8 tấn, tăng 2,41%).

- Tình hình sản xuất, kinh doanh tôm giống trên địa bàn tỉnh trong tháng gặp khó khăn do thị trường tiêu thụ giảm, nhiều cơ sở sản xuất chưa đi vào ổn định, nguyên nhân do tình hình nuôi tôm thương phẩm cả nước gặp nhiều khó khăn, chi phí đầu tư nuôi tôm tăng cao, hiệu quả nuôi đạt thấp nên doanh nghiệp nuôi tôm hạn chế thả tôm giống. Sản lượng tôm giống sản xuất trong tháng ước 2,3 tỷ post, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 15,6 tỷ con, giảm 4,1% so với cùng kỳ năm trước

 

Biểu đồ cơ cấu sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2023 (Đvt: %)

- Các cơ quan chức năng đã tổ chức cao điểm tuần tra, kiểm soát bảo vệ nguồn lợi thủy sản; tại các cảng cá đã tổ chức kiểm tra, kiểm soát nghề cá phục vụ phòng, chống khai thác IUU. Trong tháng đã ban hành 52 quyết định với tổng số tiền xử phạt 601 triệu đồng đồng với các hành vi vi phạm tàng trữ công cụ kích điện, sử dụng tàu cá không đăng ký, không đăng ký lại tàu cá, khai thác thủy sản không đúng nghề ghi trong GPKTTS, không thông báo hoặc thông báo không đầy đủ các thông tin theo quy định cho tổ chức quản lý cảng cá trước khi rời, vào cảng cá theo quy định, thuyền trưởng không có chứng chỉ theo quy định. Tính từ đầu năm 2023 đến ngày 05/8/2023 đã ban hành 197 quyết định với tổng số tiền xử phạt 2,1 tỷ đồng.

5. Phát triển nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Trong 9 tháng, có 12 HTX mới được thành lập nâng tổng số HTX trên toàn tỉnh lên 161 HTX (trong đó có 141 HTX đang hoạt động và 20 HTX dừng hoạt động). Hỗ trợ, nâng cao hiệu quả hoạt động các hình thức tổ chức sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế tập thể và hợp tác xã.

Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), trong 9 tháng, đã công nhận thêm 06 sản phẩm OCOP 3 sao với 02 chủ thể, luỹ kế đến nay toàn tỉnh có 76 sản phẩm đạt chuẩn sản phẩm OCOP (trong đó có 40 sản phẩm đạt 3 sao; 34 sản phẩm 4 sao; 02 sản phẩm tiềm năng 5 sao với 48 chủ thể gồm: 15 chủ thể là HTX, 01 tổ hợp tác, 19 doanh nghiệp, còn lại là cơ sở sản xuất và hộ kinh doanh).

Kết quả thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia về nông thôn mới đến nay, toàn tỉnh đạt bình quân 17,06 tiêu chí/xã và 5,13 tiêu chí/huyện; lũy kế đến nay toàn tỉnh có 72/93 xã đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 77,4%.

II. Công nghiệp; xây dựng, đầu tư; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Hoạt động sản xuất công nghiệp ước tháng 9, quý III và 9 tháng 2023 với mức tăng trưởng dựa trên động lực chính từ ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí. Ngành chế biến, chế tạo dần phục hồi nhưng vẫn còn nhiều khó khăn trong khâu tìm kiếm đơn hàng, nguồn nguyên liệu sản xuất do tác động của xung đột giữa Nga - Ucraina kéo dài, kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt chi tiêu ở nhiều quốc gia làm suy giảm nhu cần tiêu dùng.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 9 ước tăng 20,96% so với tháng trước và tăng 26,97% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng giảm 28,76%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 4,93%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 43,9%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,38%. Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng cao chủ yếu do tháng 9 cùng kỳ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 và 4 mở rộng hầu như không phát điện.

Dự ước quý III/2023 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước giảm 10,54% so với quý trước và tăng 10,63% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng giảm 30,67%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 14,88%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 24,04%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,28%.

Tính chung 9 tháng năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 4,08% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng giảm 10,6%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 9,56%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,63%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,02%. Mức tăng chung của 9 tháng chủ yếu do sự đóng góp của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí; mức giảm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo do các đơn hàng xuất khẩu giảm ở các doanh nghiệp như: Công Ty TNHH Hải Nam (sản phẩm thủy sản), Công Ty TNHH Kim Đô và Công Ty Cổ Phần Chế Biến Gỗ Xuất Khẩu Khải Hoàn (Các sản phẩm đồ gỗ), Công Ty Trách Nhiệm Hữu Hạn Quốc Tế Right Rich (sản phẩm giày dép),...

 

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) 9 tháng so với cùng kỳ qua các năm

Đvt: %

 

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) tháng 9 ước đạt 3.248,9 tỷ đồng, tăng 10,99% so với tháng trước và tăng 11,46% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 29.698,1 tỷ đồng, tăng 3,86% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: công nghiệp khai khoáng đạt 2.114,6 tỷ đồng, giảm 5,31%; công nghiệp chế biến chế tạo đạt 14.784,9 tỷ đồng, giảm 0,51%; sản xuất và phân phối điện đạt 12.615,9 tỷ đồng, tăng 11,42%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 182,6 tỷ đồng, tăng 3,31%.

* Một số sản phẩm chủ yếu

Các sản phẩm sản xuất 9 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ gồm: Nước mắm tăng 14,17%; nhân hạt điều tăng 9,11%; quần áo may sẵn tăng 1,45%; nước máy sản xuất tăng 3,500%; điện sản xuất tăng 9,69%; sơ chế mũ cao su tăng 4,23%. Sản phẩm giảm gồm: Cát sỏi các loại giảm 15,03%; đá khai thác giảm 23,50%; muối hạt giảm 28,93%; thủy sản đông lạnh giảm 33,09%; thủy sản khô giảm 25,12%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) giảm 7,47%; gạch các loại giảm 35,11%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ giảm 47,69%; thức ăn gia súc giảm 29,64%; giày, dép các loại giảm 53,24%.

* Tình hình xu hướng sản xuất kinh doanh ngành chế biến, chế tạo

Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến chế tạo trong quý III/2023 cho thấy, có 25% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước (quý II/2023 so với quý I/2023: 21,54%); 40,63% đánh giá khó khăn hơn (quý II/2023 so với quý I/2023: 35,38%) và 34,38% số doanh nghiệp cho rằng ổn định (quý II/2023 so với quý I/2023: 43,08%).

Doanh nghiệp ngoài quốc doanh có 23,64% chiều hướng tốt lên; 34,55% có chiều hướng giữ nguyên và 41,82% có chiều hướng khó khăn hơn; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) có 25% doanh nghiệp chiều hướng tốt lên; 37,5% có chiều hướng giữ nguyên và 37,5% có chiều hướng khó khăn hơn; doanh nghiệp nhà nước đánh giá 100% tốt lên.

Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý III/2023, có 54,69% doanh nghiệp đánh giá do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 32,81% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 48,44% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh trong nước cao; 43,75% doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên nhiên vật liệu; 17,19% doanh nghiệp cho rằng không tuyển dụng được lao động theo yêu; 39,06% doanh nghiệp cho rằng do gặp khó khăn về tài chính; 37,5% doanh nghiệp cho rằng lãi xuất vay vốn cao; 17,19% doanh nghiệp cho rằng không tuyển dụng được lao động theo yêu; 12,5% doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu và có 6,25% doanh nghiệp đánh giá lý do chính sách pháp luật của nhà nước.

Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý IV so với quý III năm 2023: có 73,44% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó có 39,06% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; 34,38% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 26,56% dự báo khó khăn hơn.

* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Trong 9 tháng năm 2023, các KCN thu hút được 06 dự án đầu tư, trong đó có 01 dự án đầu tư nước ngoài và 05 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.319 tỷ đồng và 3,6 triệu USD, diện tích đất thuê là 33,33 ha; cấp điều chỉnh tăng vốn cho 01 dự án với vốn đầu tư tăng thêm 10 tỷ đồng. Lũy kế đến nay các KCN thu hút được 86 dự án đầu tư, trong đó có 26 dự án đầu tư nước ngoài với 60 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 17.209,37 tỷ đồng và 230,46 triệu USD, diện tích đất cho thuê 286,84 ha.

Với tình hình kinh tế thế giới các nước đang thắt chặt chi tiêu, các doanh nghiệp trong KCN rất nổ lực tìm kiếm đơn hàng để duy trì hoạt động sản xuất. Doanh thu 9 tháng năm 2023 của các doanh nghiệp KCN ước đạt 6.530 tỷ đồng, tăng 7,0% so với cùng kỳ; kim ngạch xuất khẩu ước đạt ước đạt 155 triệu USD, giảm 6,8% so với cùng kỳ; nộp ngân sách ước đạt 105,5 tỷ đồng, tăng 11,7% so với cùng kỳ.

2. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện tháng 9 ước đạt 516,7 tỷ đồng, tăng 6,1% so với tháng trước và tăng 0,7% so với tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 9 tháng vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 3.145,3 tỷ đồng, tăng 1,03% so với cùng kỳ năm trước, đạt 64,6% so với kế hoạch. Trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.744,1 tỷ đồng, tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước, đạt 64,5% so với kế hoạch; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 356,7 tỷ đồng, giảm 14,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 65,4% so với kế hoạch; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 44,4 tỷ đồng, giảm 16,4% so với cùng kỳ năm trước, đạt 63,5% so với kế hoạch. Trong ngân sách nhà nước cấp tỉnh, vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 1.112,5 tỷ đồng, đạt 65,43% kế hoạch năm; vốn nước ngoài (ODA) 47,5 tỷ đồng, đạt 35,34% kế hoạch năm và vốn xổ số kiến thiết đạt 961,2 tỷ đồng, đạt 64,08% kế hoạch năm.

 

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước

do địa phương quản lý lũy kế 9 tháng so với cùng kỳ

Đvt: tỷ đồng

 

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện trên địa bàn trong quý III/2023 ước đạt 12.210,8 tỷ đồng, tăng 3,6% so với cùng kỳ năm trước; dự ước 9 tháng đạt 30.738,6 tỷ đồng, tăng 7,47% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: vốn nhà nước trên địa bàn đạt 6.353,8 tỷ đồng, tăng 3,8% so với cùng kỳ và chiếm 20,7% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn ngoài nhà nước đạt 22.505,8 tỷ đồng tăng 8,3% so với cùng kỳ và chiếm 73,2% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.879,0 tỷ đồng tăng 10,4% so với cùng kỳ và chiếm 6,1% trong tổng số vốn  thực hiện trên địa bàn.

 

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn 9 tháng qua các năm

Đvt: tỷ đồng

 

3. Đăng ký kinh doanh

Trong tháng (từ ngày 15/8 - 14/9/2023), có 122 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 57 đơn vị trực thuộc), tăng 0,83% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 253,150 tỷ đồng, giảm 57,49%; giải thể 30 doanh nghiệp (trong đó có 14 đơn vị trực thuộc), tăng 25% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 33 doanh nghiệp (trong đó có 09 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2,75 lần so với cùng kỳ; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 6 doanh nghiệp (trong đó có 01 đơn vị trực thuộc), tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ; đăng ký thay đổi 130 doanh nghiệp (trong đó có 30 đơn vị trực thuộc), giảm 2,26%. Lũy kế 9 tháng năm 2023, có 984 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 435 đơn vị trực thuộc), giảm 15,323% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 6.005,92 tỷ đồng, giảm 14,04%; có 186 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 52 đơn vị trực thuộc), giảm 11%; tạm ngừng hoạt động 431 doanh nghiệp (trong đó có 98 đơn vị trực thuộc), tăng 26,02%; số doanh nghiệp đăng ký thay đổi 1.471 doanh nghiệp (trong đó có 414 đơn vị trực thuộc), tăng 33,61%; Số doanh nghiệp đã giải thể 231 doanh nghiệp (trong đó có 131 đơn vị trực thuộc), giảm 2,12%.

Thông báo cảnh báo 110 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký; xử lý “mở khóa” hoạt động trở lại 14 trường hợp sau khi cơ quan thuế chấp thuận và doanh nghiệp có báo cáo giải trình; xử lý giải thể 129 chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh.

4. Đăng ký đầu tư

Trong 9 tháng, trên địa bàn tỉnh có 30 dự án mới được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng vốn đăng ký 33.618,6 tỷ đồng; có 29 dự án đăng ký điều chỉnh, với tổng vốn điều chỉnh tăng 6.175,3 tỷ đồng; có 12 dự án khởi công xây dựng 10 dự án đi vào hoạt động kinh doanh.

 Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng. Tiếp nhận 04 khoản viện trợ từ các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài với tổng giá trị 3.614 triệu đồng.

III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả

Tình hình thương mại của tỉnh trong 9 tháng năm 2023 hoạt động tương đối ổn định; sức mua của người dân tăng so với cùng kỳ năm trước; hàng hoá dồi dào luôn đáp ứng nhu cầu người dân, giá bán trên thị trường tương đối ổn định, không xảy ra biến động khan hiếm thị trường làm tăng giá đột biến. Hoạt động du lịch diễn ra khá nhộn nhịp, nhiều hoạt động văn hoá, thể thao mang tầm quốc gia, cấp tỉnh và nhiều lễ hội khác đã thu hút nhiều du khách, vận động viên trong cả nước và quốc tế về tham dự. Dịch vụ lữ hành hoạt động ổn định và tiếp tục tăng cường phục vụ cho người dân và du khách. Các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống tăng cường phục vụ cho người dân địa phương và du khách, đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, niêm yết giá bán, tuân thủ theo quy định của cơ quan quản lý. Các siêu thị điện máy đưa ra nhiều chương trình giảm giá, bên cạnh đó còn áp dụng nhiều chương trình hậu mãi, kéo dài thêm thời gian chăm sóc khách hàng. Các siêu thị Coop mart, Lotte mart; hệ thống các cửa hàng tiện ích thường xuyên có các chương trình giảm giá nhiều mặt hàng nhằm kích cầu tiêu dùng.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 9 đạt 8.186 tỷ đồng, tăng 2,06% so với tháng trước và tăng 20,95% so với cùng kỳ năm trước, trong đó dự ước doanh thu bán lẻ hàng hoá đạt 5.100 tỷ đồng, tăng 1,62% so với tháng trước và tăng 7,92% so với cùng kỳ năm trước (Một số nhóm ngành hàng chủ yếu: nhóm lương thực, thực phẩm đạt 2.506,5 tỷ đồng, tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 5,37% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng may mặc đạt 219,6 tỷ đồng, tăng 1,91% so với tháng trước và tăng 12,15% so với cùng kỳ năm trước; nhóm vật phẩm, văn hoá, giáo dục đạt 57,5 tỷ đồng, tăng 2,88% so với tháng trước và tăng 9,31% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng xăng dầu đạt 812,2 tỷ đồng, tăng 1,79% so với tháng trước và tăng 10,64% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác đạt 253,8 tỷ đồng, tăng 1,56% so với tháng trước và tăng 12,23% so với cùng kỳ năm trước). Doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 3.086 tỷ đồng, tăng 2,78% so với tháng trước và tăng 51,09% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2023 tình hình bán lẻ hàng hoá đạt 15.088,9 tỷ đồng, tăng 3,71% so với quý trước và tăng 13,01% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 68.790,1 tỷ đồng, tăng 29,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hoá ước đạt 43,692,2 tỷ đồng, tăng 17,25%; doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 25.097,9 tỷ đồng, tăng 59,45%.

Hoạt động vui chơi giải trí tăng so với tháng trước, các cơ sở kinh doanh tăng cường hoạt động phục vụ cho người dân địa phương và du khách nhất các ngày nghỉ Lễ và các ngày nghỉ cuối tuần, tại khu du lịch phức hợp Nova Phan Thiết đã chính thức mở cửa các hoạt động vui chơi tại công viên nước Florida Water Park Phan Thiết đã thu hút nhiều người dân địa phương và du khách đến vui chơi và trãi nghiệm; dự ước doanh thu hoạt động vui chơi giải trí đạt 586,6 tỷ đồng, tăng 3,57% so với tháng trước và tăng 55,52% so với cùng kỳ năm trước. Các hoạt động dịch vụ cá nhân và gia đình, hoạt động dịch vụ khác tiếp tục hoạt động phục vụ đáp ứng cho nhu cầu của người dân nhất là các dịch vụ tổ chức sự kiện, dự ước doanh thu đạt 270 tỷ đồng, tăng 1,26% so với tháng trước và tăng 43,07% so với cùng kỳ năm trước.

 

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

lũy kế 9 tháng qua các năm

Đvt: tỷ đồng

 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 9 tăng 0,74% so với tháng trước; tăng 4,08% so với cùng kỳ năm trước; tăng 2,15% so với tháng 12 năm trước; CPI bình quân 9 tháng so với cùng kỳ năm trước tăng 3,12%. So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 10 nhóm hàng tăng giá: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,21%; giao thông tăng 1,05%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,78%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,57%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,3%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,18%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,18%; giáo dục tăng 0,09%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; bưu chính viễn thông tăng 0,01%. Có 1 nhóm hàng giảm giá: may mặc, mũ nón và giầy dép giảm 0,02%.

 

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) các tháng năm 2023 so với cùng kỳ năm trước

Đvt: %

 

Chỉ số giá sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2023 giảm 1,88% so với quý trước; tăng 2,55% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 5,77% so với cùng kỳ năm trước. Ba nhóm sản phẩm chính quý III/2023 có 2 nhóm tăng và 1 nhóm giảm giá so với quý trước: sản phẩm nông nghiệp giảm 3,17%; sản phẩm lâm nghiệp tăng 2,11% và sản phẩm thủy sản tăng 0,53%.

Chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2023 tăng 0,61% so với quý trước và tăng 0,3% so với cùng kỳ năm trước, bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 3,36% so cùng kỳ, trong đó: chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,14% so quý trước; giảm 8,25% so cùng kỳ năm trước; bình quân 9 tháng năm 2023 giảm 3,08% so với cùng kỳ; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,22% so quý trước và tăng 3,91% so cùng kỳ năm trước, bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 6,33% so cùng kỳ; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho xây dựng giảm 1,20% so quý trước và giảm 0,40% so cùng kỳ năm trước, bình quân 9 tháng năm 2023 tăng 2,22% so cùng kỳ.

Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý III/2023 tăng 1,25% so với quý trước, tăng 7,55% so cùng kỳ năm trước.

* Công tác quản lý thị trường

Lực lượng chức năng tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát, thị trường chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đối với các mặt hàng đang lưu thông trên địa bàn tỉnh; ngoài ra còn tập trung xử lý vi phạm hàng hoá kinh doanh trên các sàn thương mại điện tử, các mặt hàng thiết yếu có ảnh hưởng lớn đến kinh tế - xã hội và quyền lợi của người tiêu dùng. Không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng, tăng giá bất hợp lý, hàng giả, hàng kém chất lượng xâm nhập vào thị trường, thường xuyên kiểm tra, kiểm soát các cơ sở kinh doanh như thực hiện việc niêm yết giá và bán đúng giá niêm yết, kinh doanh hàng hóa có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm về buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu vẫn còn diễn ra trên địa bàn. Trong tháng 8/2023 đã kiểm tra 56 vụ, phát hiện và xử lý 19 vụ vi phạm, trong đó 07 vụ hàng nhập lậu, 04 vụ vi phạm trong kinh doanh, 08 vụ vi phạm khác và thu nộp ngân sách nhà nước 430,94 triệu đồng. Luỹ kế 8 tháng đã kiểm tra 458 vụ, phát hiện và xử lý 195 vụ vi phạm, trong đó 10 vụ vi phạm hàng cấm, 88 vụ hàng nhập lậu, 12 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và sở hữu trí tuệ, 04 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 21 vụ vi phạm trong kinh doanh phẩm và 60 vụ vi phạm khác; xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 3.416,13 triệu đồng.

2. Hoạt động du lịch

Chín tháng năm 2023, hoạt động du lịch trên địa bàn diễn ra khá nhộn nhịp so với tháng trước, nghỉ lễ kéo dài nhiều ngày cùng với nhiều yếu tố thuận lợi như thời tiết thuận lợi tuyến du lịch đảo Phú Quý là điểm đến được thu hút nhiều du khách đến trãi nghiệm, tuyến cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, Phan Thiết - Vĩnh Hảo đã đi vào ổn định thu hút khá nhiều du khách đến tham quan nghỉ dưỡng tại địa phương. Tiếp tục hưởng ứng Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”, tại địa phương diễn ra một số hoạt động văn hoá, thể thao mang tầm quốc gia như giải chạy Stop And Run Marathon Bình Thuận 2023, lễ hội thả diều trên bãi biển thành phố Phan Thiết, cuộc thi Hoa hậu và Nam vương Siêu mẫu Thể hình Thế giới - Miss & Mister Fitness Super Model World 2023, chung kết Giải billiards & snooker vô địch quốc gia năm 2023, giải Đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia năm 2023, Lễ Hội cầu ngư 2023; Hội chợ thương mại, ẩm thực; Khai mạc Tuần lễ Văn hóa đường phố Bình Thuận năm 2023 với Chủ đề “Bình Thuận chào tương lai; Caraval đường phố với chủ đề “Sắc màu Bình Thuận”… đã thu hút được rất đông du khách đến tham dự nên doanh thu và lượng khách tăng so với tháng trước và tăng so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động lữ hành, các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ khác hoạt động ổn định và tiếp tục tăng cường phục vụ cho người dân và du khách, các đơn vị kinh doanh lữ hành tiếp tục khai thác tuyến du lịch đảo Phú Quý, thiết kế tour và mở rộng quảng bá, liên kết vùng đến các tỉnh thành trong cả nước giúp du khách biết thêm về các điểm tham quan du lịch tại địa phương. Các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống tăng cường phục vụ cho người dân địa phương và du khách, đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, niêm yết giá bán, tuân thủ theo quy định của cơ quan quản lý.

Lượng khách du lịch trong tháng 9 ước đạt 856,2 ngàn lượt khách, tăng 1,94% so tháng trước và tăng 56,81% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 1.656,3 ngàn ngày khách, tăng 2,18% so với tháng trước và tăng 64,75% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước trong quý III/2023 lượng khách du lịch đạt 2.526,4 ngàn lượt khách, tăng 6,41% so với quý trước và tăng 59,95% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 4.445,7 ngàn ngày khách, tăng 8,61% so với quý trước và tăng 67,90% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng lượng khách du lịch dự ước đạt 6.984,3 ngàn lượt khách, tăng 75,8% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 13.195,9 ngàn ngày khách tăng 87,39% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ lưu trú trong tháng 9 ước đạt 494,4 tỷ đồng, tăng 2,1% với tháng trước và tăng 70,56% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.503,2 tỷ đồng, tăng 3,12% so với tháng trước và tăng 52,22% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hổ trợ du lịch ước đạt 16,3 tỷ đồng, tăng 4,18% so với tháng trước và tăng 65,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý III/2023 ước doanh thu lưu trú đạt 1.456,7 tỷ đồng, tăng 7,27% so với quý trước và tăng 72,73% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 4.405,5 tỷ đồng, tăng 6,50% so với quý trước và tăng 55,25% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành ước đạt 47,07 tỷ đồng, tăng 11,38% so với quý trước và tăng 66,46% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng ước doanh thu lưu trú đạt 4004,5 tỷ đồng, tăng 74,97% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 12.221,8 tỷ đồng, tăng 59,64% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành ước đạt 126,4 tỷ đồng, tăng 69,09% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 9 ước đạt 2.143,9 tỷ đồng tăng 1,86% so với tháng trước và tăng 50,95% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 ước đạt 6.332,4 tỷ đồng, tăng 6,01% so với quý trước và tăng 35,70% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng ước đạt 17.675,9 tỷ đồng, tăng gần 2 lần so với cùng kỳ.

* Tình hình khách quốc tế: lượng khách quốc tế trong tháng dự ước đạt 28,5 ngàn lượt khách, tăng 4,15% so với tháng trước và tăng 3,86 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ dự ước đạt 115,8 ngàn ngày khách, tăng 4,35% so với tháng trước và tăng 3,95 lần so với cùng kỳ năm trước. Lượng khách quốc tế đến Bình Thuận ngày càng tăng chủ yếu Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ, Hà Lan chiếm tỷ trọng cao trong tổng lượt khách quốc tế. Dự ước trong quý III/2023 lượng khách quốc tế đạt 78,3 ngàn lượt khách, tăng 45,49% so với quý trước và tăng 3 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 317,7 ngàn ngày khách, tăng 46,52% so với quý trước và tăng 3,07 lần so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng lượng khách quốc tế ước đạt 200,7 ngàn lượt khách, tăng 3,95 lần so với cùng kỳ; ngày khách phục vụ ước đạt 812 ngàn ngày khách tăng 4,08 lần so với cùng kỳ năm trước.

3. Xuất nhập khẩu

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 9 tháng năm 2023 chưa có dấu hiệu khả quan, giảm so với cùng kỳ năm trước. Nhóm hàng thủy sản và hàng hóa khác do không có đơn hàng, sản xuất đình trệ nên hoạt động xuất khẩu cầm chừng. Nhóm hàng nông sản tuy có tăng nhưng do chiếm tỷ trọng không cao trong tổng kim ngạch nên ít tác động đến sự tăng trưởng chung.

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng 9 ước đạt 66,11 triệu USD, tăng 7,74% so với tháng trước và tăng 16,40% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 17,36 triệu USD, tăng 7,53% so với tháng trước và giảm 5,35% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,23 triệu USD, tăng 6,52% so với tháng trước và tăng 77,49% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hóa khác ước đạt 47,52 triệu USD, tăng 7,86% so với tháng trước và tăng 25,85% so với cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 552,1 triệu USD, giảm 12,38% so với cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 152,90 triệu USD, giảm 22,18%; nhóm hàng nông sản ước đạt 11,09 triệu USD, tăng 34,41%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 358,11 triệu USD, giảm 8,44%.

+ Xuất khẩu trực tiếp lũy kế 9 tháng ước đạt 514,60 triệu USD, giảm 12,89% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường Châu Á ước đạt 373,35 triệu USD, giảm 1,44% so với cùng kỳ năm trước; thị trường Châu Âu ước đạt 32,74 triệu USD, giảm 47,40%; thị trường Châu Mỹ ước đạt 101,34 triệu USD, giảm 29,85% so với cùng kỳ năm trước. Một số nước xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch của tỉnh như: Nhật Bản (mặt hàng chủ yếu như tôm, cá, thủy sản, dệt may...), Đài Loan (mặt hàng chủ yếu như bộ quần áo, thủy sản…), Mỹ (mặt hàng chủ yếu như giày dép, tôm thẻ…), Belizơ (chủ yếu là mặt hàng đế giày các loại), Trung Quốc (mặt hàng chủ yếu như tôm, giày dép, các loại quặng…), Campuchia (chủ yếu là mặt hàng nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi).

+ Ủy thác xuất khẩu, lũy kế 9 tháng năm 2023 ước đạt 7,50 triệu USD, tăng 46,02% so với cùng kỳ năm trước.

- Kim ngạch nhập khẩu tháng 9 ước đạt 105,45 triệu USD, giảm 2,48% so với tháng trước và giảm 22,13% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 867,75 triệu USD, giảm 15,99% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu là nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên liệu dệt may, da giày, hàng thủy sản... Do hoạt động xuất khẩu cầm chừng nên việc nhập khẩu nguyên liệu cũng giảm hơn so với cùng kỳ.

4. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải, kho bãi 9 tháng năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Giao thông đường bộ ngày càng thuận lợi, hạ tầng giao thông ngày càng được hoàn thiện, tuyến cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết và tuyến cao tốc Phan Thiết - Dầu Giây đưa vào khai thác đã rút ngắn khoảng cách, giảm thiểu thời gian đi lại và chi phí lưu thông hàng hóa, vận chuyển hành khách giữa các tỉnh, thành phố trong cả nước thúc đẩy nhu cầu đi lại và vận chuyển. Giao thông đường biển hoạt động thông suốt, số lượng tàu ổn định và tăng số lượng chuyến nhằm phục vụ cho người dân trên đảo cũng như khách du lịch khắp nơi đổ về tham quan và khám phá đảo Phú Quý.

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 9/2023 đạt 1.103,85 nghìn HK, tăng 2,87% so với tháng trước và tăng 32,29% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 104.859,79 nghìn HK.Km, tăng 2,77% so với tháng trước và tăng 59,58% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2023, lượt khách vận chuyển ước đạt 3.202,70 nghìn HK, tăng 25,54% so với quý cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 304.322,70 nghìn HK.Km, tăng 47,14% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng lượt khách vận chuyển ước đạt 9.528,84 nghìn HK, tăng 35,22% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 937.424,24 nghìn HK.Km, tăng 62,13% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 9 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.084,76 nghìn HK, tăng 3,01% so với tháng trước và tăng 32,36% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 vận chuyển hành khách ước đạt 3.139,40 nghìn HK, tăng 25,44% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 9.349,11 nghìn hk.km, tăng 35,08% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 19,09 nghìn hành khách, giảm 4,58% so với tháng trước và tăng 28,64% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 vận chuyển hành khách ước đạt 63,40 nghìn HK, tăng 30,71% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 179,73 nghìn hành khách, tăng 43,25% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 103.180,32 nghìn HK.Km, tăng 2,82% so với tháng trước và tăng 60,26% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 luân chuyển hành khách ước đạt 298.892,00 nghìn HK.Km, tăng 47,7% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 921.268,00 nghìn hk.km, tăng 62,57% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1.679,47 nghìn hk.km, giảm 0,09% so với tháng trước và tăng 26,53% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 luân chuyển hành khách ước đạt 5.430,70 nghìn HK.Km, tăng 21,85% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 16.156,28 nghìn hk.km, tăng 40,21%.

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 9/2023 đạt 432,53 nghìn tấn, tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 5,77% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 42.590,39 nghìn tấn.Km, tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 7,71% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2023, khối lượng vận chuyển ước đạt 1.339,00 nghìn tấn, tăng 16,36% so với quý cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 127.158,40 nghìn tấn.Km, tăng 28,84% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng khối lượng vận chuyển ước đạt 4.881,57 nghìn tấn, tăng 17,56% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 387.796,7 nghìn tấn.Km, tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 9 vận chuyển hàng hóa đường bộ đạt 431,27 nghìn tấn, tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 5,79% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 vận chuyển hàng hoá ước đạt 1.334,9 nghìn tấn, tăng 16,43% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 4.868,5 nghìn tấn, tăng 17,54% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 1,26 nghìn tấn, giảm 2,85% so với tháng trước, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 vận chuyển hàng hoá ước đạt 4,1 nghìn tấn, giảm 1,43% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 13,07 nghìn tấn, tăng 23,67%. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 42.451,46 nghìn tấn.km, tăng 0,19% so với tháng trước và tăng 7,73% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2023 luân chuyển hàng hoá ước đạt 126.702,6 nghìn tấn.Km, tăng 28,98% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 386.370 nghìn tấn.km, tăng 23,29%. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 138,93 nghìn tấn.km, giảm 2,76% so với tháng trước và tăng 3% so cùng kỳ năm trước; quý III/2023 luân chuyển hàng hoá ước đạt 455,70 nghìn tấn.Km, giảm 0,39% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng đạt 1.426,70 nghìn tấn.km, tăng 23,65%.

- Doanh thu hoạt động giao thông vận tải, kho bãi tháng 9 ước đạt 254,71 tỷ đồng, giảm 31,84% so với tháng trước và tăng 30,37% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2023 đạt 857,83 tỷ đồng, tăng 52,62% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng ước đạt 2.301,9 tỷ đồng, tăng 43,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 960,87 tỷ đồng, tăng 43,66% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt đạt 999,06 tỷ đồng, tăng 19,36%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 336,01 tỷ đồng, tăng 3,67 lần; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 5,97 tỷ đồng, tăng 66,27%.

- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua cảng quốc tế Vĩnh Tân tháng 9 ước đạt 125 ngàn tấn, trong đó: xuất cảng 75 ngàn tấn (muối xá, tro bay, quặng ilmenite, xỉ than, cát…); nhập cảng 50 ngàn tấn (muối xá, xi măng, cao lanh, bột đá,…). Lũy kế 9 tháng ước đạt 972,78 ngàn tấn, giảm 0,21% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: xuất cảng 708,01 ngàn tấn (giảm 10,23%) và nhập cảng 264,77 ngàn tấn (tăng 42,26%).

 

Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi lũy kế 9 tháng so với cùng kỳ

Đvt: tỷ đồng

 

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Ước thu ngân sách tháng 9 đạt 400 tỷ đồng, giảm 20,66% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng ước 7.588,59 tỷ đồng, đạt 75,84% dự toán năm và giảm 11,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nội địa 6.748,59 tỷ đồng, đạt 78,42% dự toán năm, giảm 13,12%. Trong tổng thu ngân sách gồm: thu thuế, phí và thu khác 6.277,16 tỷ đồng, đạt 84,77% dự toán năm, giảm 6,42%; thu tiền nhà, đất 471,43 tỷ đồng, đạt 39,25% dự toán năm, giảm 55,51% (trong đó thu tiền sử dụng đất 370,2 tỷ đồng, đạt 37,02% dự toán năm, giảm 56,84% so với cùng kỳ năm trước); thu thuế xuất nhập khẩu 840,0 tỷ đồng, đạt 60,0% dự toán toán năm và giảm 0,90% so với cùng kỳ năm trước.

 

Thu ngân sách nhà nước 9 tháng qua các năm

Đvt: tỷ đồng

 

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu 9 tháng có 01/10 huyện, thị xã, thành phố thu Ngân sách ước đạt trên mức bình quân chung khối huyện (80,85%) so dự toán năm và tăng so cùng kỳ: Bắc Bình (đạt 117,44% dự toán và tăng 8,6% so cùng kỳ). Có 07/10 huyện, thị xã, thành phố thu Ngân sách ước đạt trên mức bình quân chung khối huyện (80,85%) so dự toán năm và giảm so cùng kỳ: Tuy Phong (đạt 85,49% dự toán và giảm 7,94% so cùng kỳ), Hàm Thuận Bắc (đạt 104,94% dự toán và giảm 14,36% so cùng kỳ), Hàm Thuận Nam (đạt 96,97% dự toán và giảm 12,85% so cùng kỳ), La Gi (đạt 95,4% dự toán và giảm 42,86% so cùng kỳ), Đức Linh (đạt 130,21% dự toán và giảm 2,17% so cùng kỳ), Tánh Linh (đạt 86,17% dự toán và giảm 22,12% so cùng kỳ) và Phú Quý (đạt 109,05% dự toán và giảm 46,9% so cùng kỳ). Có 02/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách ước đạt dưới mức bình quân chung khối huyện (80,85%) so dự toán năm và giảm so cùng kỳ: Phan Thiết (đạt 59,75% dự toán và giảm 32,8% so cùng kỳ) và Hàm Tân (đạt 73,37% dự toán và giảm 28,68% so cùng kỳ).

Tổng chi trong tháng ước thực hiện 1.254,48 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng ước đạt 7.667,15 tỷ đồng; chi ngân sách nhà nước ước đạt 6.705,98 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 1.714,67 tỷ đồng; chi thường xuyên 4.955,75 tỷ đồng; chi dự phòng ngân sách 35,56 tỷ đồng. Chi một số nhiệm vụ Trung ương giao 961,17 tỷ đồng.

2. Hoạt động tín dụng

Đến ngày 31/8/2023, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 82.948 tỷ đồng, tăng 3,85% so với đầu năm và tăng 3,254% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: dư nợ cho vay bằng VND đạt 81.548,3 tỷ đồng, chiếm 98,31% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 51.584 tỷ đồng, chiếm 60,2% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm khoảng 2,07% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm khoảng 2,06% tổng dư nợ, lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 20,62% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 52% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 23,25% tổng dư nợ. Ước đến 30/9/2023, tổng dư nợ đạt là 83.863 tỷ đồng, tăng 5% so với cuối năm 2022.

Lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 3-4,5%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 4,4-7,8%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 5-9%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân 5%/năm), các lĩnh vực khác từ 8,5-13%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-14%/năm.

Vốn huy động đến ngày 31/8/2023 đạt 55.807,3 tỷ đồng, tăng 5,81% so với đầu năm. Ước đến ngày 30/9/2023, nguồn vốn huy động đạt 56.171 tỷ đồng, tăng 6,5% so với cuối năm 2022. Đến ngày 31/8/2023, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 2.022,5 tỷ đồng, chiếm 2,44% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 0,25% so với đầu năm.

Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 46.080,3 tỷ đồng, chiếm 55,55% tổng dư nợ; dư nợ cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt 274 tỷ đồng, chiếm 0,33% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 696 tỷ đồng, chiếm 0,84% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 15.063,3 tỷ đồng, chiếm 18,2% tổng dư nợ.

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ (nội bảng) 68,18 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 17 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 52 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 0,73 tỷ đồng). Nợ xấu (nội bảng) đã chuyển sang nợ  ngoại bản, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 14,67 tỷ đồng/19 tàu, nợ ngoại bảng là 838,95tỷ đồng/86 tàu. Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 4.205,3 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đạt 187,7 tỷ đồng/493 hộ; cho vay giải quyết việc làm đạt 711,6 tỷ/15.382 khách hàng, cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 741,4 tỷ/20379 hộ; cho vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn đạt 279,7 tỷ/ 7.615 hộ,...

Thực hiện Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 16/8/2022 về việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ nguồn ngân sách nhà nước 40.000 tỷ theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN. Kết quả thực hiện đến ngày 31/8/2023, doanh số cho vay hỗ trợ lãi suất 280.248 triệu đồng, số khách hàng được hỗ trợ lãi suất 14 khách hàng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng 981 triệu đồng. Dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 1.3047,09 tỷ đồng/32 khách hàng (trong đó gốc là 1.261,45 tỷ đồng, lãi là 85,64 tỷ đồng); lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là 1.412,87 tỷ đồng/38 khách hàng (trong đó gốc là 1.324,61 tỷ đồng, lãi là 88,26 tỷ đồng).

Về Chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết 33/NQ-CP (giá trị 120 nghìn tỷ đồng) và Chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản (khoảng 15 nghìn tỷ đồng): đối với gói cho vay 120.000 tỷ đồng: đã triển khai thực hiện nhưng trên địa bàn chưa có phát sinh số liệu cho vay (do chưa công bố danh mục các dự án trên địa bàn đủ điều kiện vay theo Chương trình tín dụng 120.0000 tỷ); chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản: chương trình tín dụng này mới được triển khai và hướng dẫn thực hiện nên đến thời điểm báo cáo chưa có dư nợ phát sinh.

Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ luỹ kế đến tháng 8/2023 đạt 312 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 100,5 triệu USD. Đến ngày 31/8/2023, trên địa bàn có 205 máy ATM, tăng 9 máy so với đầu năm và 1.719 máy POS, tăng 60 máy so với đầu năm. Các máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển mạng lưới ATM và POS, đảm bảo hệ thống máy ATM hoạt động ổn định, an toàn, thông suốt. Đến nay tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn trên 90%.

V. Lĩnh vực Văn h - Xã hội

1. Hoạt động Văn hóa - Thể dục thể thao

1.1. Hoạt động văn hóa

- Hoạt động tuyên truyền, cổ động: đã tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng trong năm gắn với Năm Du lịch quốc gia 2023 Bình Thuận - Hội tụ xanh

- Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp: biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị với 70 suất; biểu diễn phục vụ Lễ hội ChaPui (huyện Hàm Tân); Tết Đầu lúa (huyện Bắc Bình); Lễ Giỗ tổ Hùng Vương; Ngày hội Du lịch Tp Hồ Chí Minh lần thứ 19; tổ chức biểu diễn chương trình Mừng Đảng - Mừng Xuân Quý Mão năm 2023 và biểu diễn chương trình nghệ thuật âm nhạc đường phố phục vụ nhân dân, du khách trong đêm giao thừa tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 và Năm Du lịch quốc gia tại khu vực Công viên Đồi Dương, công viên Võ Văn Kiệt; chương trình Lễ khánh thành Khu di tích Căn cứ Tỉnh ủy Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ; Lễ Khai mạc Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”; Lễ hội Nho - Vang Ninh Thuận năm 2023; Hội thi văn nghệ tại Trại giam Thủ Đức; Đại hội Công đoàn Viên chức tỉnh;...

- Văn hóa, văn nghệ quần chúng: biểu diễn văn nghệ tuyên truyền với 70 buổi, 779 buổi chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân, đồng bào vùng sâu, miền núi, thiếu nhi các huyện với kịch bản tuyên truyền “Cạm bẫy đồng tiền”; tổ chức chương trình nghệ thuật với chủ đề “Bình Thuận sắc màu”, chương trình Countdown “Chào năm mới 2023”, chương trình Tết Dương lịch “Chào xuân 2023”; Chương trình giao lưu nghệ thuật dân gian truyền thống của các tỉnh tham gia Triển lãm, chương trình giao lưu nghệ thuật “Hướng về biển đảo thân yêu”, Chương trình âm nhạc đường phố với chủ đề “Bình Thuận - Rockfest”…. Tuyên truyền, cổ động trực quan, tổ chức đợt phim Mừng Đảng - mừng Xuân Quý Mão 2023, kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam kỷ niệm 80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam, các hoạt động tại Triển lãm “Di sản văn hóa biển, đảo Việt Nam”. Tham gia Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc miền Trung lần thứ III năm 2023 tại Bình Định. Phối hợp tổ chức Tuần lễ Văn hóa đường phố Bình Thuận - Hội tụ xanh; Chương trình biểu diễn vở cải lương “Nợ nước non”; Liên đoàn Lao động tỉnh tổ chức  Hội thi “Tiếng hát đoàn viên, công nhân, viên chức, lao động tỉnh Bình Thuận” lần thứ II năm 2023.

- Hoạt động thư viện: cấp mới và đổi 1.970 thẻ (thiếu nhi 1.444 thẻ), 1.289.697 lượt bạn đọc (truy cập website 1.214.537 lượt, tại thư viện 5.057 lượt, qua youtube 25.057 lượt, khai thác sách trực tuyến 4.180 lượt, truy cập Fanpage 4.180 lượt, phục vụ xe lưu động: 20.092 lượt); luân chuyển 98.956  lượt sách, tài liệu (thư viện 8.904 lượt, xe lưu động 88.130 lượt, qua website 1.822 lượt). Phục vụ xe ô tô thư viện lưu động tại 40 điểm trường học thu hút 19.592 học sinh tham gia. Tổ chức Hội Báo Xuân Quý Mão 2023 (trực tuyến) trên website, với 112 loại báo Xuân của Trung ương, các tỉnh và ấn phẩm địa phương. Tổ chức cuộc thi Vẽ tranh trên nón lá với chủ đề “Bức tranh quê hương Bình Thuận”; cuộc thi lập trình điều khiển robot với chủ đề “Robot - Bạn của chúng ta”. Tham dự Liên hoan Thiếu nhi kể chuyện theo sách năm 2023 tại tỉnh Ninh Thuận (đạt giải B); Liên hoan Cán bộ thư viện toàn quốc tuyên truyền phát triển văn hóa đọc và giới thiệu sách về chủ quyền biển đảo Việt Nam, chủ đề “Việt Nam - Đất nước bên bờ sóng” tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

- Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: đã đón 295.787 lượt khách đến tham quan, trong đó có 2.788 lượt khách quốc tế; phục vụ 140 lễ viếng Bác. Đặc biệt, phục vụ chu đáo đoàn lãnh đạo của Trung ương về làm việc. Phối hợp với một số báo, đài Trung ương và địa phương thực hiện 09 phóng sự, phim tư liệu về Bác và Khu di tích Dục Thanh…Sưu tầm, trao đổi, tiếp nhận 79 hiện vật. Hỗ trợ Cục Di sản Văn hóa khảo sát, nghiên cứu Nghề làm nước mắm tại Phan Thiết, Đoàn làm phim VTV4 Truyền hình Việt Nam thực hiện phóng sự “Bảo tồn Arija người Chăm trên địa bàn tỉnh”;…

- Hoạt động tại các huyện, thị xã, thành phố: thực hiện tuyên truyền trực quan đường phố, triển lãm ảnh, tổ chức một số hoạt động phục vụ các sự kiện chính trị, ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm quê hướng đất nước, trọng tâm là phục vụ Tết Nguyên đán Quý Mão 2023, kỷ niệm ngày thành lập huyện, thị xã, thành phố, hưởng ứng các hoạt động của Năm Du lịch quốc gia đã tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong nhân dân.

1.2. Hoạt động thể thao

Thể thao quần chúng được tổ chức sôi nổi đều khắp ở các địa phương, nhiều loại hình thể thao được tổ chức thường xuyên đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong 9 tháng, đã tổ chức lễ hội Mô tô Việt Nam - Bình Thuận 2023 (khoảng 2500 chiếc Mô tô) xác lập kỷ lục Guinness về đoàn mô tô diễu hành đông nhất, dài nhất Việt Nam; tổ chức trình diễn bay treo 30 quả khinh khí cầu và 07 chiếc dù lượn tại bãi biển Đồi Dương; Giải Stop and Run Marathon - BTV Bình Thuận 2023 với sự tham gia tranh tài của gần 2.000 vận động viên trong và ngoài nước; Giải Bóng chuyền hơi nữ vô địch tỉnh năm 2023 - Cúp SHB Bình Thuận; Giải thi đấu Thể hình nam - nữ bãi biển 2023; Hội khỏe Phù đổng tỉnh Bình Thuận lần thứ XV năm 2023; tổ chức “Ngày chạy Olympic - vì sức khỏe toàn dân”; giải Việt dã vô địch tỉnh Bình Thuận năm 2023; Giải Bán Marthon Tuy Phong lần 1 - Năm 2023; Giải bán Marathon vòng quanh đảo Phú Quý; Giải đua Xe đạp thành phố Phan Thiết mở rộng hưởng ứng Năm du lịch quốc gia 2023; Giải đua Xe đạp vòng quanh núi Tà Cú huyện Hàm Thuận Nam mở rộng lần thứ XIV năm 2023 Cúp Việt Úc Group Aloha; Giải ba môn phối hợp (bơi, chạy, trượt đồi cát) Cụm miền Đông Nam Bộ năm 2023; Giải Bóng rổ 5x5 thanh thiếu niên tỉnh từ ngày 23-26/5; Giải Golf Du lịch Bình Thuận “Chuyển động xanh - Hole in one” tổ chức ngày 24/5; Giải trẻ và vô địch Vovinam tỉnh Bình Thuận năm 2023 từ ngày 27/7- 30/7; giải Taekwondo vô địch các lứa tuổi trẻ tỉnh Bình Thuận năm 2023 từ ngày 03/8 - 05/8….. Tổ chức Hội thi Leo núi Tà Cú huyện Hàm Thuận Nam - Bình Thuận mở rộng lần thứ XXV năm 2023; Hội thi đua thuyền Truyền thống trên sông Cà Ty;giải Chạy vượt đồi cát tại Hòn Rơm, Mũi Né…

- Thể thao thành tích cao: cử các đội tuyển tham gia 57/8611 (Giải Bóng đá hạng Nhất năm 2023; Vô địch quốc gia Việt dã Leo núi “Chinh phục đỉnh cao Bà Rá” lần thứ 28 năm 2023 tại Bình Phước; Thể hình nam - nữ bãi biển 2023; Bóng đá vô địch U17 quốc gia năm 2023; Vô địch Kickboxing toàn quốc năm 2023 tại Gia Lai; Giải Đại Bình Karate Open Championship năm 2023 tại thành phố Bảo Lộc; Bóng rổ Tứ hùng U20 tại Thành phố Hồ Chí Minh; vô địch trẻ Judo Đông Nam Á năm 2023 tại Malaysia; vô địch Juhitsu Châu Á năm 2023 tại Thái; cử vận động viên môn Taekwondo tham gia thành phần Đoàn Taekwondo Việt Nam tham dự giải vô địch Taekwondo biểu diễn thế giới lần thứ nhất năm 2023; Vô địch Taekwondo Dallas - Mỹ mở rộng năm 2023... ), các giải thể thao với 216/110 huy chương, đạt 196% (53 HCV, 64 HCB, 99 HCĐ). Phối hợp Liên đoàn Bóng đá Việt Nam tổ chức giải Bóng đá hạng Nhất quốc gia năm 2023 tại Ninh Thuận; với Liên đoàn Billiards & Snooker Việt Nam tổ chức Vòng 1 giải Billiards Snooker vô địch quốc gia; Giải Đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia; giải vô địch Yoga trẻ quốc gia lần II và Giải Yoga Thiếu niên và Nhi đồng toàn quốc lần V năm 2023 và giải vô địch Bóng bàn các Câu lạc bộ, Hiệp hội, Liên đoàn, Trung tâm là thành viên trực thuộc Liên đoàn Bóng bàn Việt Nam năm 2023. Đặc biệt, cử 18 vận động viên tập trung đội tuyển và đội tuyển trẻ quốc gia (06 Judo, 01 Jujitsu, 06 Canoeing, 02 Taekwondo, 01 Điền kinh, 01 Karate, Bóng đá 01), trong đó có 05 vận động viên tham gia thi đấu SEA Games 32, đạt 3 huy chương (1 HCV môn Judo, 01 HCB môn Đua thuyền truyền thống, 1 HCĐ môn Taekwondo).

2. Giáo dục và đào tạo

Ngày 05/9/2023 toàn tỉnh đồng loạt tổ chức Lễ khai giảng năm học 2023-2024 đảm bảo thời gian quy định, tạo không khí long trọng, trang nghiêm([1]). Trong năm học mới 2023-2024, tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng, nội dung, cải tiến phương pháp dạy và học để bảo đảm các yêu cầu về phương pháp dạy học, kĩ thuật dạy học, kiểm tra, đánh giá, thiết bị dạy học và học liệu, nhằm phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh. Đến nay, toàn tỉnh có 292/536 trường đạt chuẩn quốc gia (Mầm non có 57/142 trường CQG; TH có 136/238 trường CQG; THCS có 85/130 trường CQG; THPT có 14/26 trường CQG, đạt tỷ lệ 54,48%).

Kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 12 THPT cấp tỉnh; kết quả có 392 học sinh đạt giải (06 nhất, 40 nhì, 346 ba), tăng 18 giải so với năm học 2021-2022 (giảm 04 nhất, 25 nhì, tăng 93 ba); kỳ thi chọn học sinh giỏi THPT quốc gia năm học 2022-2023 có 07 giải: 01 nhì, 02 ba, 04 khuyến khích (tăng 04 giải gồm: 01 nhì, 02 ba, 01 khuyến khích).

Tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 theo các quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 98,43% (tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông bình quân của cả nước là 98,88%), xếp vị trí thứ 31/63 (năm 2022 xếp vị thứ 32/63).

Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong các cơ sở giáo dục trung học, trong đó tập trung đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục hướng nghiệp. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp 9 tháng năm 2023 cho 5.961 người; tiếp tục triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Tổ chức thành công Hội khỏe Phù Đổng cấp tỉnh lần thứ XV năm học 2022 - 2023. Phát động phong trào đọc sách tới toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học sinh để hưởng ứng Ngày Sách và văn hóa đọc Việt Nam. Các cơ sở giáo dục tổ chức các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí trong thanh niên học sinh, ít nhất 01 hoạt động/01 cơ sở/năm.

 3. Y tế

Tính đến ngày 31/8/2023, toàn tỉnh ghi nhận 2.993 ca mắc sốt xuất huyết Dengue, giảm 42,2% so với cùng kỳ (trong đó: có 117 ca sốt xuất huyết nặng, 01 trường hợp tử vong); ghi nhận 252 ổ dịch sốt xuất huyết trên 9/10 huyện/thị xã/thành phố (riêng huyện Phú Quý chưa ghi nhận ổ dịch), giảm 11,3% so với cùng kỳ.

Bệnh tay chân miệng có 1.097 trường hợp mắc (tăng 86,3% so với cùng kỳ), 03 trường hợp tử vong do bệnh tay chân miệng (tăng 02 ca so với cùng kỳ).

 Bệnh sốt rét ghi nhận 03 ca (trong đó 02 ca phát hiện ngoại lai: 01 ca ngoại lai ngoài tỉnh và 01 ca ngoại lai nước khác), tăng 50% so với cùng kỳ; không có sốt rét ác tính và tử vong do sốt rét. Thực hiện tốt công tác bảo vệ, phòng chống vec tơ truyền bệnh bằng tẩm màn và phun hóa chất diệt muỗi.

Phòng chống HIV/AIDS ghi nhận 34 cas nhiễn HIV, 06 cas nhiễm chuyển sang AIDS, 07 ca tử vong do AIDS. Lũy kế từ trước đến nay, toàn tỉnh ghi nhận: 1.774 ca nhiễm HIV; 1.110 ca nhiễm HIV chuyển AIDS; 548 ca tử vong do AIDS. Điều trị nghiện chất (Methadone) tiếp tục duy trì, có 05 cơ sở điều trị và 06 điểm cấp phát thuốc điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone, có 566 người hiện đang điều trị bằng Methadon.

 Công tác phòng chống bệnh phong, có 128.395 người được khám phát hiện mới, đạt 85,6% kế hoạch, giảm 29,7% so với cùng kỳ 2022, trong đó khám phát hiện 02  bệnh nhân phong mới huyện Bắc Bình (01 PB), huyện Tuy Phong (01MB) nâng số bệnh nhân đang quản lý tại tỉnh là 366. Các bệnh nhân phong được hướng dẫn cách phòng tránh tàn tật và tự chăm sóc tại nhà; 100% bệnh nhân phong có tàn tật được chăm sóc.

Công tác phòng chống bệnh lao, có 1.050 bệnh nhân lao các thể thu dung điều trị, đạt 55,3 % so với kế hoạch, giảm 18,9% so với cùng kỳ; 700 ca bệnh nhân lao phổi AFB(+), đạt 77,8% kế hoạch và giảm 7,9% so với cùng kỳ. 

Bệnh dại toàn tỉnh ghi nhận 02 trường hợp mắc và tử vong do dại (Tuy Phong 01 ca, La Gi 01 ca). 

Trong tháng không có xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm; luỹ kế 9 tháng xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm có 29 người mắc do nấm và bồ câu có chứa hóa chất bảo vệ thực vật carbofuran tại xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, không có trường hợp tử vong. Đảm bảo tốt công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trong dịp nghỉ lễ.

Tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm; hoạt cộng giám sát, biện pháp phòng, chống dịch bệnh, ca bệnh được quản lý chặt chẽ, cập nhật kịp thời và xử lý triệt để các ổ dịch. Tình hình dịch cúm A (H5N1), bạch hầu, Ebola, Zika, dịch tả... không ghi nhận trường hợp mắc.

* Công tác tiêm phòng dịch bệnh Covid-19

Số ca mắc Covid-19 (từ ngày 27/4/2021 đến ngày 31/8/2023) toàn tỉnh ghi nhận 54.340 ca mắc Covid-19 (Phan Thiết 9.190, Tánh Linh 9.026, Hàm Thuận Bắc 6.556, Hàm Thuận Nam 6.282, Tuy Phong 5.160, La Gi 4.429, Hàm Tân 4.408, Đức Linh 3.714, Phú Quý 2.807, Bắc Bình 2.768). Trong đó: có 01 ca đang điều trị, 53.884 ca đã điều trị khỏi và xuất viện, 484 ca tử vong (29 ca tử vong ngoài tỉnh). Tính từ ngày 01/01/2023 đến 31/8/2023, toàn tỉnh có 429 ca mắc Covid-19 (02 ca ngoài tỉnh), không có ca tử vong.

Tính đến ngày 31/8/2023, tiêm cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên hoàn thành 100% liều cơ bản, 545.282/762.532 tiêm mũi 3 (mũi nhắc lại lần 1), đạt tỷ lệ 71,5%, 125.085/125.200 tiêm mũi 4 (mũi nhắc lại lần 2), đạt tỷ lệ 99,9% (125.200 là số đối tượng đăng ký tiêm mũi nhắc lần 2 do các địa phương báo cáo về điều chỉnh).

Hiện nay công tác tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành 100% liều cơ bản, 57.700/121.499 tiêm nhắc lần 1, đạt tỷ lệ 47,5%. Tiêm cho trẻ từ 5 đến 11 tuổi 113.068/128.460 mũi 1, đạt tỷ lệ 88%; 86.445/128.460 tiêm mũi 2, đạt tỷ lệ 67,3%.

4. Khoa học và công nghệ; Thông tin, Truyền thông

Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng, hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ. Tăng cường hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong việc tạo lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ. Tập trung hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại địa phương và các hoạt động thúc đẩy sáng kiến. Nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa và triển khai Đề án triển khai, áp dụng và quản lý hệ thống truy xuất nguồn gốc.

Công tác thông tin, tuyên truyền được thực hiện kịp thời, thể hiện đầy đủ diễn biến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội trong tỉnh, tuyên truyền về các nghị quyết Hội nghị Trung ương khóa XIII, các Hội nghị Tỉnh ủy và các kỳ họp HĐND tỉnh, kịp thời phát hiện và biểu dương gương người tốt việc tốt, điển hình tiên tiến trong lao động và sản xuất, phát hiện và phản ánh các sự việc, vấn đề còn bất cập, kịp thời giúp địa phương chấn chỉnh, khắc phục; tăng cường thông tin, tuyên truyền các hoạt động Năm Du lịch quốc gia 2023 Bình Thuận - Hội tụ xanh.

Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G tiếp tục được nâng cao chất lượng, phát triển mở rộng; băng rộng di động, băng rộng cố định (cáp quang) đã được phủ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt; phát thử nghiệm thêm 02 trạm mạng di động 5G tại Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh và Toà nhà Viettel. Tập trung mở rộng các dịch vụ bưu chính trên nền tảng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số; cung cấp thông tin, dịch vụ qua mobile apps. Lũy kế 9 tháng năm 2023, có 1.275 điểm giao dịch BCVT; bán kính phục vụ bình quân 1,39 km; mật độ thuê bao điện thoại các loại 149,75 thuê bao/100 dân; 1.329.771 thuê bao Internet các loại và tỷ lệ người sử dụng Internet qui đổi đạt 75%.

5. Lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội

Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 2.109 lao động, luỹ kế 9 tháng giải quyết việc làm 18.103 lao động, giảm 4,86% so với cùng kỳ năm trước. Cho vay vốn giải quyết việc làm 3.187 lao động Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề trong tháng cho 1.358 người, luỹ kế 9 tháng 5.961 người, giảm 52,34% so với cùng kỳ năm trước.

Thực hiện đúng, đầy đủ các chế độ, chính sách ưu đãi đã ban hành đối với người có công với cách mạng, các hoạt động trợ giúp xã hội; vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa 8,4 tỷ đồng; quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh 1,87 tỷ đồng. Tổ chức tốt các giải pháp cụ thể trợ giúp hộ nghèo ổn định sản xuất và phát triển sản xuất; các chính sách an sinh xã hội được bảo đảm, chi trả trợ cấp kịp thời, đúng thời gian quy định, đúng chế độ, chính sách. Thực hiện tốt công tác xã hội; đảm bảo 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng chính sách trợ giúp xã hội theo quy định.

Tổ chức điều dưỡng tập trung cho 845 Người có công tại các tỉnh Bến Tre, Vĩnh Long và Đà Lạt; triển khai hỗ trợ 10 nhà ở năm 2023 cho Người có công từ nguồn quỹ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa. Nhìn chung, công tác chăm lo đời sống cho người có công với cách mạng luôn được quan tâm thực hiện, qua đó đã phần nào sẻ chia những hy sinh, mất mát đối với các thân nhân gia đình liệt sĩ, các thương, bệnh binh, động viên họ vượt qua khó khăn, bệnh tật.

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 2.111/31 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (trong đó: quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 393, quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 126 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 598 người; 994 đang được các ban, ngành, đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục). Có 107/124 xã, phường, thị trấn có người nghiện ma tuý, chiếm 86,3% số xã, phường, thị trấn.

6. Hoạt động bảo hiểm

Tính đến ngày 31/8/2023, toàn tỉnh có 95.397 người tham gia BHXH bắt buộc, đạt 92,1% kế hoạch, giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước; có 86.865 người tham gia BHTN, đạt 91,5% kế hoạch, giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 1,3%; số người tham gia BHXH tự nguyện 9.429 người, đạt 62,8% kế hoạch, giảm 1,3% so với tháng trước và giảm 6,3%; số người tham gia BHYT 1.059.561 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.405 người), đạt 93,2% kế hoạch, tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 3%.

Đến ngày 31/8/2023, toàn tỉnh có 242.684/245.583 học sinh, sinh viên (HSSV) tham gia BHYT, trong đó có 207.676 em tham gia tại trường học, 35.008 em tham gia theo nhóm khác. Có 50.179 người/92.206 người thuộc hộ gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT. Người thuộc hộ nghèo đã được cấp thẻ BHYT đạt 99,9% (còn 17 người chưa được cấp thẻ). Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 90,94% dân số.

Xét duyệt cho 45.012 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, tăng 6% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: hưởng chế độ BHXH dài hạn: 564 người; hưởng trợ cấp thất nghiệp: 7.818 người; hưởng trợ cấp BHXH một  lần: 10.979 người; hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức - phục hồi sức khỏe: 25.651 lượt người. Tổng số người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn xét duyệt, quản lý đến đầu tháng 9/2023 là 18.051 người. Tổng số thu 1.785,98 tỷ đồng, đạt 59,6% kế hoạch, tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; tổng số đã chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN 1.953.718 triệu đồng, tăng 14,3% (trong đó: 1.330.103 triệu đồng chi trả chế độ BHXH; 119.974 triệu đồng chi BHTN; 503.641 triệu đồng chi BHYT).

7. Tai nạn giao thông (từ ngày 15/8 - 14/9/2023)

Số vụ tai nạn giao thông 21 vụ, so với tháng trước giảm 09 vụ và tăng 09 vụ so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng đã xảy ra 181 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), giảm 10 vụ so với cùng kỳ năm trước.

Số người bị thương 19 người, giảm 10 người so với tháng trước và tăng 05 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng có 124 người bị thương, tăng 25 người so với cùng kỳ năm trước.

Số người chết 08 người, giảm 07 người so với tháng trước và giảm 15 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng có 117 người chết (trong đó đường sắt 01 người) giảm 17 người so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; 09 vụ nghiêm trọng và 12 vụ va chạm. Luỹ kế 9 tháng xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, 09 vụ rất nghiêm trọng, 89 vụ nghiêm trọng, 02 vụ ít nghiêm trọng và 70 vụ va chạm. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát.

 

Tai nạn giao thông 9 tháng năm 2023 chia theo

khối huyện, thị xã, thành phố

 

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố: Phan Thiết xảy ra 34 vụ tai nạn giao thông, 31 người bị thương, 11 người chết; La Gi xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông, 13 người bị thương, 06 người chết; Tuy Phong xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông, 19 người bị thương, 15 người chết; Bắc Bình xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, 12 người bị thương, 14 người chết; Hàm Thuận Bắc xảy ra 29 vụ tai nạn giao thông, 17 người bị thương, 22 người chết; Hàm Thuận Nam xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông, 05 người bị thương, 16 người chết; Tánh Linh xảy ra 13 vụ tai nạn giao thông, 10 người bị thương, 09 người chết; Đức Linh xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông, 09 người bị thương, 03 người chết; Hàm Tân xảy ra 21 vụ tai nạn giao thông, 07 người bị thương, 20 người chết; Phú Quý xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông, 01 người bị thương và 01 người chết.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 03 vụ thiên tai, giảm 07 vụ so với tháng trước và giảm 03 vụ so với cùng kỳ năm trước; nguyên nhân do mưa lớn kéo dài, gió bão kèm theo lốc xoáy, sét, làm tốc mái 10 căn nhà và một số tài sản khác; ước giá trị thiệt hại 02 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng xảy ra 41 vụ thiên tai (tăng 09 vụ so với cùng kỳ năm trước), ước tổng giá trị thiệt ban đầu 136,74 tỷ đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 04  vụ cháy, tăng 02 vụ so với tháng trước và giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm trước; làm 04 người chết, 01 người bị thương; không xảy ra nổ; ước thiệt hại 01 tỷ đồng. Luỹ kế 9 tháng xảy ra 15 vụ cháy (giảm 10 vụ so với cùng kỳ năm trước), ước thiệt hại 74,44 tỷ đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong tháng phát hiện 01 vụ, giảm 01 vụ so với tháng trước và giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm trước; đã xử phạt 385,91 triệu đồng. Luỹ kế 9 tháng xảy ra 19 vụ (giảm 06 vụ so với cùng kỳ năm trước), xử phạt 2.017,19 triệu đồng.



[1] Theo Quyết định số 1618/QĐ-UBND ngày 14/8/2023 của UBND tỉnh Bình Thuận về việc phê duyệt kế hoạch thời gian năm học 2023 - 2024 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên trên địa bàn tỉnh.

 

CTK Bình Thuận

 

 

 

 

File đính kèm: Số liệu KTXH 9 tháng năm 2023.pdf

 



TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/