HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Những ngày tháng năm của Chủ Tịch Hồ Chí Minh(Giai đoạn 1890--1945)

* Cuối năm 1901 Nguyễn Tất Thành được phụ thân gửi học chữ Hán với thầy Vương Thúc Quý ở trong làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý là người con độc nhất của tú tài Vương Thúc Mậu, lãnh tụ Cần Vương của huyện Nam Đàn, người đã hy sinh trong cuộc càn quét của giặc Pháp tại Kim Liên. Mang nặng nợ nước thù nhà, thầy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học và cùng các sĩ phu yêu nước trong vùng âm mưu chống Pháp. Nhà thầy Quý là nơi các sĩ phu yêu nước thường lui tới, trong đó có các ông Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân… Những hôm nhà có khách, Nguyễn Tất Thành thường được thầy Quý lưu lại giúp đun nước, pha trà… Nhờ đó Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi luận bàn thời cuộc của các sĩ phu yêu nước.

 

* Cuối năm 1901

Nguyễn Tất Thành được phụ thân gửi học chữ Hán với thầy Vương Thúc Quý ở trong làng Kim Liên. Thầy Vương Thúc Quý là người con độc nhất của tú tài Vương Thúc Mậu, lãnh tụ Cần Vương của huyện Nam Đàn, người đã hy sinh trong cuộc càn quét của giặc Pháp tại Kim Liên. Mang nặng nợ nước thù nhà, thầy Quý tuy đỗ cử nhân nhưng không ra làm quan mà ở nhà mở trường dạy học và cùng các sĩ phu yêu nước trong vùng âm mưu chống Pháp. Nhà thầy Quý là nơi các sĩ phu yêu nước thường lui tới, trong đó có các ông Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân… Những hôm nhà có khách, Nguyễn Tất Thành thường được thầy Quý lưu lại giúp đun nước, pha trà… Nhờ đó Nguyễn Tất Thành được nghe nhiều chuyện qua các buổi luận bàn thời cuộc của các sĩ phu yêu nước.

* Cuối năm 1909

Để tiếp tục việc học tập, Nguyễn Tất Thành được cha gửi đến Quy Nhơn để học thêm tiếng Pháp với thầy giáo Phạm Ngọc Thọ dạy tại trường Tiểu học Pháp - Việt Quy Nhơn theo chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur).

* Từ nửa sau tháng 9-1910 đến trước tháng 2-1911

Nguyễn Tất Thành dạy học ở Trường Dục Thanh (Phan Thiết). Thời gian đầu, thầy Thành ở nhờ nhà cụ Hồ Tá Bang, sau chuyển ra ở cùng với học sinh nội trú của trường tại một căn nhà có tên gọi là nhà Ngư trong vườn cụ Nguyễn Thông.

Thầy dạy rất tận tâm, hết lòng thương yêu, chăm sóc học sinh. Thầy thường phổ biến cho học sinh những thơ ca yêu nước, chẳng hạn bài Á tế á ca, bài Ca hớt tóc, v.v.. Thầy phụ trách thể dục buổi sáng của nhà trường, chăm lo xây dựng tủ sách, hướng dẫn học sinh thăm phong cảnh trong vùng, như động Thiềng Đức, bãi biển Thương Chánh.

* Tháng 12-1912

- Trước ngày 15: Nguyễn Tất Thành đến nước Mỹ.                 

- Ngày 15: Từ Niu Oóc (New York), Nguyễn Tất Thành gửi thư cho Khâm sứ Trung Kỳ nhờ cho biết tình hình và địa chỉ của cha là Nguyễn Sinh Huy. Thư cho biết đã gửi cho ông Nguyễn Sinh Huy ba ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một lần trả lời. Thư ký tên Paul Tất Thành, kèm theo địa chỉ hòm thư lưu: Số 1, đường Đô đốc Cuốcbê (Courbet), Lơ Havơrơ, Pháp.

Sau khi đến Niu Oóc, Nguyễn Tất Thành vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Năm 1966, trong một lần tiếp nhà báo Mỹ Đêvít Đenlingiơ (David Delingher), Bác Hồ có nói: “Khi trở về Mỹ ông có thể nói rằng tôi đã đi ở cho người ta ở Brúclin (Brooklin) với lương tháng 40 đôla, còn bây giờ làm Chủ tịch nước Việt Nam tôi được lĩnh 44 đôla”, "... Tôi làm việc không đến nỗi vất vả lắm và dùng một số thời gian rảnh để học tập và đi thăm những khu vực trong thành phố”. Người còn nhắc đến chuyện đi xe điện ngầm tới thăm khu Háclem và rất xúc động trước điều kiện sống của người da đen.

- Trong tháng 12: Cùng với bức thư gửi cho phụ thân, Nguyễn Tất Thành còn gửi một bức thư cho ông Nguyễn Sinh Khiêm thời kỳ này đang giúp việc vặt ở Toà Khâm sứ Trung Kỳ. Nguyễn Tất Thành nhờ anh trai vận động xin cho Thành vào học Trường Thuộc địa tại Pari. Ông Khiêm đã gửi bức thư cho Toàn quyền Anbe Xarô (Albert Sarraut) và lá thư đã được chuyển tới Khâm sứ Trung Kỳ .

* Khoảng cuối năm 1917: Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp 

* Tháng 12-1919

- Ngày 17: Nguyễn Ái Quốc còn đến văn phòng của hai tờ báo L'Humanité và Le Populaire hỏi xin việc làm nhiếp ảnh cho Phan Châu Trinh.

- Ngày 18: Nguyễn Ái Quốc gặp Khánh Ký cho biết đã gặp toà soạn báo L'Humanité và báo Le Populaire để tìm cho Phan Châu Trinh một chỗ làm thợ ảnh ở Pari.

- Ngày 19: Buổi tối, Nguyễn Ái Quốc tranh luận với các ông Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường và Khánh Ký tại nhà số 6 phố Vila đê Gôbơlanh.   

- Ngày 20: 17 giờ 30, đến Acađêmi Luyđô chơi bi-a với cụ Phan Châu Trinh.

- Ngày 22: Nguyễn Ái Quốc dự cuộc mít tinh do Công đoàn C.G.T tổ chức và phân phát tại đấy một số bản Yêu sách của nhân dân An Nam.

- Trước ngày 26: Nguyễn Ái Quốc nói chuyện với Êđua tại số 6 Vila đê Gôbơlanh về ý muốn lập Hội tương tế Đông Dương, gồm những người dân Đông Dương đã ở ít lâu trên đất Pháp nhằm giữ gìn và phát triển những ý kiến tốt và những kiến thức đã thu lượm được tại Pháp.

Khi Êđua nêu vấn đề do anh ta đang làm việc trong cơ quan nhà nước nên nếu tham gia phải được cấp trên cho phép, Nguyễn Ái Quốc nói: “Dù sao thì tôi tin là Chính phủ không có lý do nào để không cho phép lập một hội không có mục đích chính trị nào cả như vậy. Nếu anh chịu lo thì chắc chắn Nhà nước sẽ cho phép”.

Khi nói đến vấn đề tư pháp, Nguyễn Ái Quốc đả kích mạnh mẽ việc lập toà đại hình ở Bắc Kỳ. Nguyễn Ái Quốc khẳng định đã tận mắt trông thấy những người dân Trung Kỳ chỉ đến Toà Khâm với tay không để phản đối sưu thuế quá nặng, thế mà người ta đã nổ súng để giải tán họ. Nguyễn Ái Quốc cho rằng biện pháp đó là tàn bạo và vô nhân đạo, cho rằng các quan lại An Nam là nguyên nhân của cuộc nổi loạn và bắn giết đó, sau đó lại xử tội chém hoặc đi đày nhiều người vô tội.

- Vào những tháng cuối năm 1919, Uỷ ban Quốc tế III của Đảng Xã hội Pháp được thành lập. Mục đích của Uỷ ban này là vận động Đảng gia nhập Quốc tế III và bảo vệ cách mạng Nga đang bị các chính phủ tư sản kể cả Chính phủ Clêmăngxô (Clémanceau) của Pháp, tiến công dữ dội.

Nguyễn Ái Quốc tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức này.

Anh thường lui tới phòng họp Hội phổ biến kiến thức ở khu Latinh, phòng họp Muyliê ở gần lâu đài Luýchxămbua, rạp chiếu bóng phố Satô dô (Château d’eau) ở Quận 10, v.v. để dự các cuộc họp của Uỷ ban Quốc tế III tại Pari. Trong các cuộc họp, Nguyễn Ái Quốc thường thông báo cho các bạn Pháp về tình hình Việt Nam và những tội ác của thực dân Pháp ở đó.

Nguyễn Ái Quốc cùng một số đảng viên Đảng Xã hội Pháp đi quyên góp tiền trong các phố Pari để giúp cách mạng Nga vượt qua nạn đói, hậu quả của việc Chính phủ Pháp và chính phủ các nước Đồng minh bao vây nước Nga Xôviết. Cùng với việc quyên tiền, Nguyễn Ái Quốc tham gia phân phát các truyền đơn của Đảng Xã hội Pháp kêu gọi lao động Pháp lên án sự can thiệp vũ trang của Chính phủ Pháp vào nước Nga, hoan nghênh Cách mạng Tháng Mười Nga. 

- Nguyễn Ái Quốc tổ chức in bản Yêu sách của nhân dân An Nam thành truyền đơn để tuyên truyền rộng rãi trong công nhân Pháp, binh lính người Việt và Việt kiều ở Pháp. Với số tiền ít ỏi dành dụm được, Nguyễn Ái Quốc đến nhà in Sácpăngchiê ở 70 phố Gôbơlanh thuê in 6.000 bản truyền đơn nói trên, và đã phân phát trong các cuộc mít tinh ở Pari và một số thành phố khác. Nguyễn Ái Quốc còn tổ chức những cuộc nói chuyện giới thiệu bản Yêu sách và nguyện vọng của nhân dân Việt Nam đòi độc lập, tự do.

* Tháng 12- 1920

- Ngày 25: Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp với tư cách là đại biểu Đông Dương.

Đại hội khai mạc lúc 10 giờ 35 phút ngày 25-12-1920 tại phòng họp lớn của nhà Mane ở thành phố Tua (Tours), cách Pari 237km.

Khi Đoàn Chủ tịch giới thiệu Nguyễn Ái Quốc là đại biểu Đông Dương, cả Đại hội đứng dậy vỗ tay. Lần đầu tiên có một người Việt Nam tham gia một đại hội đại biểu của một chính đảng Pháp. Nguyễn Ái Quốc cũng là người bản xứ duy nhất trong số đại biểu các thuộc địa có mặt trong đại hội.

Trong hội trường đại hội, các đại biểu ngồi theo khuynh hướng chính trị. Những người cùng quan điểm ngồi cạnh nhau. Nguyễn Ái Quốc ngồi dãy ghế thứ hai phía trái (nhìn từ Đoàn Chủ tịch xuống), cạnh Pôn Vayăng Cutuyriê và những người thuộc phe tả.

Một nhà báo đã chụp ảnh Nguyễn Ái Quốc và in trên tờ Le Matin. Ngày hôm sau cảnh sát tìm đến Nguyễn Ái Quốc. Những nghị viên Đảng Xã hội can thiệp, mật thám không dám vào phòng họp và Nguyễn Ái Quốc vẫn đàng hoàng dự đại hội.

- Ngày 26: Tại phiên họp buổi chiều của đại hội, sau lời mời của Chủ tịch Đại hội Gútđơ (Goude), Nguyễn Ái Quốc với tư cách là đại biểu Đông Dương đã phát biểu ý kiến.

Trong lời phát biểu, Nguyễn Ái Quốc lên án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông Dương và trong suốt nửa thế kỷ qua, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã gây ra ở Đông Dương, và cho rằng "Đảng Xã hội cần phải hoạt động một cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức", rằng "Đảng phải tuyên truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa... đánh giá đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa...".

Nguyễn Ái Quốc đã kết thúc bài phát biểu được Đại hội nhiệt liệt hoan nghênh bằng lời kêu gọi thống thiết: "Nhân danh toàn thể loài người, nhân danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi: Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!".

- Ngày 29: lúc 22 giờ, Đại hội Tua tiến hành bỏ phiếu quyết định việc Đảng ở lại Quốc tế II hay gia nhập Quốc tế III. Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành tham gia Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản).

Sau cuộc bỏ phiếu, nữ đồng chí Rôdơ (Rose), người ghi biên bản tốc ký đại hội, hỏi Nguyễn Ái Quốc:

+ Tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III?

+ Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa... Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu.

- Ngày 30: Hồi 2 giờ, Nguyễn Ái Quốc cùng những người chủ trương gia nhập Quốc tế III tuyên bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng sản (Section Française de L'Internationale Communiste, viết tắt là SFIC).

Từ phút ấy, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản. Là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đồng thời cũng là người cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

- Từ ngày 25 đến ngày 30: Trong những ngày dự Đại hội Tua, Nguyễn Ái Quốc đã gặp gỡ đồng chí Clara Détkin (Clara Zetkin), nữ chiến sĩ cách mạng nổi tiếng của Đức, Uỷ viên Ban Thường vụ  Quốc tế Cộng sản, được Quốc tế Cộng sản cử đến dự đại hội.

* Tháng 12- 1921

- Ngày 12: Hồi 20 giờ 30, Nguyễn Ái Quốc dự cuộc họp Uỷ ban liên công đoàn quốc tế Quận 17 tại 176 phố Lơgiăng.

- Ngày 15: Hồi 20 giờ 30, Nguyễn Ái Quốc họp với Đoàn Thanh niên Cộng sản Quận 13.

- Ngày 17: Tại cuộc họp của Chi bộ Quận 17 Đảng Cộng sản Pháp ở số nhà 100 phố Cácđinê, Nguyễn Ái Quốc đã phát biểu ý kiến về nguồn gốc chiến tranh, phê phán ông Poanhcarê (Poincaré) đã chuồn về Boócđô khi quân Đức đến Pari và khẳng định ông ta phải chịu trách nhiệm về chiến tranh.

- Ngày 25: Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây, một thành phố cảng ở miền Nam nước Pháp. Người được Ban Nghiên cứu thuộc địa của Đảng bầu là đại biểu chính thức của đại hội.

Đại hội họp ở Hội trường Bôvi phố Xáctơrơ (Sartre). Cảnh sát Mácxây đã bố trí 500 tên vây quanh khu vực họp đại hội. Chúng muốn vây bắt Nguyễn Ái Quốc. Khi Người vừa tới cửa, sắp sửa bước vào sân thì cảnh sát ập tới, nhưng Nguyễn Ái Quốc đã chạy nhanh vào hội trường thoát hiểm.

- Ngày 29: Nguyễn Ái Quốc tiếp tục dự đại hội.

Buổi sáng, phiên họp thứ 9 bắt đầu vào lúc 8 giờ 45 phút dưới sự chủ tọa của Giuylơ Blăng (Jules Blanc) và hai trợ lý: Nguyễn Ái Quốc và Oócliănggiơ (Orliange).

Được mời phát biểu trước tiên, Nguyễn Ái Quốc nói: "Thông thường thì người trợ lý không phát biểu; nhưng tôi phải cảm ơn các đồng chí vì đã dành cho tôi mối thiện cảm cá nhân, và để nói với các đồng chí rằng tôi vui sướng biết chừng nào khi được dự đại hội đầu tiên của những người cộng sản. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử của chủ nghĩa xã hội Pháp, một đồng chí người bản xứ thực sự tham gia vào những công việc của đại hội. Tôi cũng phải nói đó là dấu hiệu tốt, bởi vì điều đó xác nhận rằng, chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các thuộc địa".

Buổi chiều, phiên họp thứ 10 bắt đầu vào lúc 14 giờ, do Barabăng (Barabant) chủ tọa. Mở đầu phiên họp, sau lời giới thiệu của Phrốtxa, Nguyễn Ái Quốc đã đọc Dự thảo Nghị quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa mà Người đã tham gia dự thảo.

Bản dự thảo đã tố cáo tội ác của những kẻ thực dân thống trị đối với người dân thuộc địa: hàng chục nghìn người đã chết trong cuộc chiến tranh ở châu Âu, hàng chục nghìn người đang làm nô lệ cho chủ nghĩa quân phiệt Pháp, đang làm vật hy sinh khi làm người lính bản xứ.

Sau khi nêu lên những khó khăn trong việc thực hiện những nhiệm vụ đối với thuộc địa, Bản dự thảo viết: "Bằng bất cứ cách nào những khó khăn đó cũng không thể biện minh cho việc Đảng Cộng sản từ bỏ một chính sách thuộc địa thực tế và có kết quả".

Bản dự thảo đã đề nghị Đại hội lần thứ II của Đảng Cộng sản Pháp họp ở Mácxây, thông qua một nghị quyết với những nội dung sau:

+ Chỉ ra sự cần thiết trong một thời gian ngắn nhất tạo ra một phong trào đối kháng mang tinh thần cộng sản để chống lại chủ nghĩa tư bản.

+ Chuẩn y nguyên tắc lập thành một cơ quan đặc biệt chuyên nghiên cứu và sưu tập tư liệu về thuộc địa, là cơ quan tư vấn đặt dưới quyền kiểm tra của Ban lãnh đạo.

+ Giao cho ban này bằng mọi phương sách cần thiết nhằm tích cực tuyên truyền ngay từ bây giờ về thuộc địa.

+ Dành một mục để nghiên cứu vấn đề thuộc địa trên báo L'Humanité và trong các sách, báo và ấn phẩm của Đảng.

+ Các ban nói chung cũng như những người cộng sản biệt lập thuộc mọi chủng tộc, hợp tác ngay từ bây giờ với Ban Nghiên cứu thuộc địa.

Nguyễn Ái Quốc còn tham gia dự thảo Lời kêu gọi những người dân thuộc địa sống trên đất Pháp gia nhập Hội liên hiệp thuộc địa. Lời kêu gọi viết:

"Đồng bào thân mến,

Nếu câu phương ngôn "Đoàn kết làm ra sức mạnh" không phải là một câu nói suông,

Nếu đồng bào muốn giúp đỡ lẫn nhau,

Nếu đồng bào muốn bênh vực cho quyền lợi của bản thân mình, cũng như quyền lợi của tất cả đồng bào ở các xứ thuộc địa,

Hãy gia nhập Hội liên hiệp thuộc địa".

Lời kêu gọi còn trích yếu Điều lệ của Hội, trong đó:

"Điều 2: Mục đích của hội là tập hợp và hướng dẫn cho mọi người dân các xứ thuộc địa hiện sống trên đất Pháp để: soi sáng cho những người dân ở thuộc địa về tình hình mọi mặt ở nước Pháp nhằm mục đích đoàn kết họ; thảo luận và nghiên cứu tất cả những vấn đề chính trị và kinh tế của thuộc địa".......

"Điều 13. Hội sẵn sàng giúp đỡ và cứu trợ cho mọi hội viên của các nhóm đã gia nhập hội"...

Cuối lời thư kêu gọi viết: "Đồng bào hãy gửi đơn xin vào hội cho Môngnécvin, 9, phố Valéttơ (Vallete), Quận 5, Pari; hoặc cho Nguyễn Ái Quốc, 9, ngõ Côngpoanh Quận 17 Pari".

Trong năm: Hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân Pháp, Nguyễn Ái Quốc thường xuyên tham gia các buổi sinh hoạt ở Câu lạc bộ Phôbua.

Dự những buổi sinh hoạt này, có tất cả các hạng người: bác học, cựu bộ trưởng, nghị viên, nhà thơ, thợ thuyền, người đi buôn, người già và người trẻ. Ở đây có một không khí thân mật và dân chủ, giống như ở các câu lạc bộ Giacôbanh thời Đại cách mạng Pháp. Người ta thảo luận về mọi vấn đề, từ thiên văn, địa lý, chính trị, văn học cho đến cách trồng cải xoong và nuôi ốc sên, cả những vấn đề thôi miên, bản năng, siêu hình, phụ đồng, mộng mị, về sự chết, thuyết luân hồi... Nguyễn Ái Quốc khi phát biểu đã khéo lái những vấn đề đang thảo luận sang vấn đề thuộc địa, đặc biệt là vấn đề Việt Nam. Thí dụ, có lần thảo luận về phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên, Nguyễn Ái Quốc kịch liệt phản đối thôi miên, và nói "Thực dân Pháp đã thôi miên chúng tôi để đàn áp và bóc lột chúng tôi".

Một lần khác, ở Câu lạc bộ Phôbua có cuộc thảo luận về vấn đề Ái Nhĩ Lan và Triều Tiên, Nguyễn Ái Quốc phát biểu ý kiến: "Cũng là một dân tộc bị áp bức, tôi hoàn toàn đồng tình với những người bạn Ái Nhĩ Lan và Triều Tiên, và đồng tình với hội nghị kết án bọn thực dân Anh, Nhật. Nhưng tôi hỏi các ngài có nên kết án cả những bọn thực dân khác không?". Tất nhiên mọi người đều trả lời: Có. Thế là được dịp. Nguyễn Ái Quốc lại trình bày vấn đề Việt Nam.

Nhận xét về những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong Câu lạc bộ, ông Lêô Pônđét (Léo Poldès) - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Phôbua, đã viết như sau: "Chỉ là người thợ ảnh giản dị ở ngõ hẻm Côngpoanh, ông đã từng tham dự với chúng tôi trong những cuộc thảo luận náo nhiệt. Ngay những người cừu địch với ông không ai không thán phục trí thông minh, tài năng và lòng thành thực của ông".

* Tháng 12-1922

- Ngày 1: Nguyễn Ái Quốc tham dự cuộc họp của Ban Thư ký Hội Liên hiệp thuộc địa, tại số 3, đường Mácsê đê Patơriácsơ. Dự cuộc họp còn có Bơlôngcua, Môngnécvin, Hátgiali, Xtêphani, Uyliêm, Nguyễn Văn Ái.

Buổi họp bắt đầu lúc 21 giờ.

Nguyễn Ái Quốc đã đề nghị nên có một tổ chức ở trong hội để tìm công ăn việc làm cho những người dân thuộc địa đang sống trên đất Pháp và đề nghị Bơlôngcua, Môngnécvin chịu trách nhiệm về tổ chức trên.

Buổi họp nhận thấy thời gian vừa qua do công việc nhiều, buổi họp tối thứ tư hằng tuần không thực hiện đều. Mọi người nhất trí họp thường kỳ sẽ họp vào 20 giờ tối thứ sáu và 10 giờ sáng chủ nhật.

Cùng ngày, bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Về câu chuyện Xiki, đăng trên báo Le Paria, số 9. Bài báo thuật lại vụ Xiki (Siki), đấu thủ da đen người xứ Xênêgan - một thuộc địa của Pháp ở châu Phi, đã đánh thắng đấu thủ người Pháp tên là Sácpăngchiê đoạt giải vô địch quyền Anh. Nhưng sau đó Xiki bị phạt treo giò chín tháng không được dự tất cả các võ đài Pháp với lý do đã lăng mạ một người Pháp khác tên là Cuyni (Cuni). Qua đó, bài báo bình luận và châm biếm chủ nghĩa vị chủng hẹp hòi, bất bình đẳng của thực dân Pháp. 

- Ngày 4: Bài Những quan toà thuộc địa tốt bụng của chúng ta của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo L'Humanité. Tác giả dẫn chứng "sơ lược lai lịch" của hai trong số những nhân vật được Chính phủ Pháp bổ nhiệm vào chức quan toà thuộc địa, một là ông Luycaxơ - cựu chưởng lý ở Tây Phi thuộc Pháp, người mà Bộ trưởng Bộ Thuộc địa trong thông cáo báo chí đã buộc phải tuyên bố là "cuộc điều tra đã xác định có tham dự vào vụ bê bối vừa qua ở Tôgô", và một nữa là ông Oabrăng - công tố viên ở Đắcca, một người rất vô trách nhiệm khi thừa hành công vụ, vậy mà người này thì được bổ nhiệm làm Chủ tọa toà thượng thẩm ở châu Phi xích đạo thuộc Pháp, còn người kia thì được bổ nhiệm vào cương vị Tổng công tố viên của nước cộng hoà ở Đắcca!

Bài báo mỉa mai: "Với sự có mặt của những Đáclơ, những Bôđoanh, những Oabrăng và những Luycaxơ, có thể nói rằng vận mệnh của nền văn minh tối cao, cũng như số phận của dân bản xứ ở các thuộc địa đều được nằm trong những bàn tay đáng tin cậy".

- Ngày 22: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Sự thịnh vượng của Đông Dương dưới triều đại M. Lông, đăng trên báo La Vie Ouviève. Tác giả trích dẫn một đoạn trong bức thư của đại tá Bécna (Bernard) gửi cho báo République Française, ngày 6-12-1922, nêu lên vài nét về tình hình kinh tế Đông Dương từ năm 1914 đến năm 1922 chẳng những không phát triển mà còn giảm sút nhiều hơn trước, do chính quyền thuộc địa không quan tâm xây dựng cho Đông Dương những công trình hữu ích mà chỉ chú ý bóp nặn nhân dân Đông Dương để phục vụ cho cuộc sống xa hoa của chúng.

* Tháng 12-1923: Khoảng cuối năm, Nguyễn Ái Quốc vào học Trường đại học Cộng sản của những người lao động phương Đông (gọi tắt là Trường Đại học Phương Đông) tại Mátxcơva. Người đến Liên Xô để tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng vì V.I.Lênin đang ốm nặng, đại hội phải hoãn họp, nên đã tranh thủ vào học lớp ngắn hạn của trường.

- Ngày 4: Bài viết nhan đề Tình hình ở Trung Quốc, đăng trên báo L'Humanité. Sau khi nêu những nguyên nhân đã dẫn đến tình hình tồi tệ ở Trung Quốc lúc bấy giờ, tác giả viết: “rất may mắn là tiếng vang của cách mạng Nga hình như đã thức tỉnh thế hệ mới của Trung Quốc. Lực lượng trẻ mới ra đời có đầy nhiệt tình và sức sống. Điều này thể hiện đặc biệt rõ rệt nhất là Hội sinh viên cách mạng".

Bài báo cũng giới thiệu hoạt động của tổ chức đó, đặc biệt là những nội dung cơ bản trong Cương lĩnh chính trị được thông qua tại Đại hội IV toàn Trung Quốc của Liên đoàn.

- Trước ngày 23: Nguyễn Ái Quốc gặp nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam. Thuật lại cuộc gặp gỡ đó, nhà thơ đã viết một bài báo nhan đề Thăm một chiến sĩ Quốc tế Cộng sản - Nguyễn Ái Quốc, đăng trên Tạp chí Ogoniok số 39, ghi lại những lời của Nguyễn Ái Quốc nói về nhân dân Việt Nam dưới ách thống trị của đế quốc Pháp. Khi nêu lên tinh thần đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống chính sách thực dân của Pháp, Nguyễn Ái Quốc nói: “Thật thú vị là chính quyền Pháp đã dạy cho những người nông dân chúng tôi biết những từ "bônsêvích" và "Lênin". Chúng lùng bắt những người cộng sản trong dân chúng, trong khi chẳng có người cộng sản nào, hoàn toàn không có ngay cả trong ý niệm; và như vậy chính chúng đã tuyên truyền cho chủ nghĩa bônsơvích và Lênin”.

Nhà thơ cũng nói lên cảm tưởng của mình về Nguyễn Ái Quốc và dân tộc Việt Nam như sau: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không phải văn hoá Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai”, “Dân An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới".

- Bài viết của Nguyễn Ái Quốc nhan đề Tình cảnh nông dân An Nam đăng trên báo Le Paria, số 21. Mở đầu, bài báo viết: "Người An Nam nói chung, phải è cổ ra mà chịu những công ơn bảo hộ của nước Pháp. Người nông dân An Nam nói riêng, lại càng phải è cổ ra mà chịu sự bảo hộ ấy một cách thảm hại hơn: là người An Nam, họ bị áp bức; là người nông dân, họ bị người ta ăn cắp, cướp bóc, tước đoạt, làm phá sản".

Tác giả vạch trần những thủ đoạn đê tiện của bọn thống trị để bóc lột nông dân, như phân loại ruộng đất để đánh thuế, tăng diện tích ruộng đất bằng cách thay đổi đơn vị đo đạc, cướp đoạt ruộng đất của làng này để cấp cho làng khác, lấy cớ khai khẩn thuộc địa để miễn thuế cho các chủ đồn điền, v.v..

Tác giả viết: "Phác qua như thế, chúng ta thấy rằng dưới chiêu bài dân chủ, đế quốc Pháp đã đem vào An Nam tất cả cái chế độ trung cổ đáng nguyền rủa...".

* Tháng 12-1924

- Ngày 18: Từ Quảng Châu ( Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản báo tin đã đến Quảng Châu vào giữa tháng 12 và những công việc bước đầu đã làm được.

Báo cáo đề nghị Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản giúp đỡ thêm về tài chính, chỉ thị cho các đại diện ở Quảng Châu phải chăm lo đến Đông Dương, quan tâm vấn đề tuyên truyền trong phụ nữ và thiếu nhi.

Cuối cùng, Người lưu ý các đồng chí: "Trong lúc này, tôi là một người Trung Quốc chứ không phải là một người An Nam, và tên tôi là Lý Thuỵ chứ không phải là Nguyễn Ái Quốc". 

- Ngày 19: Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản báo cáo về Tình hình Đông Dương tháng 11 và tháng 12-1924.

Báo cáo gồm hai phần: Tình hình kinh tế và Tình hình chính trị.

Phần Tình hình kinh tế, Người thông báo về việc phê chuẩn ngân sách của toàn Đông Dương, trong đó một phần năm là do tiền lời bán thuốc phiện; về tình hình dân chết đói ở nhiều nơi (trừ Nam Kỳ) do nạn lụt và bão tàn phá; tình hình nhà băng công nghiệp Trung Hoa bị phá sản, các chủ nợ người Pháp và người Việt Nam đang liên kết với nhau để đòi nợ; về dự định của nhà cầm quyền Đông Dương cho thương nghiệp Nhật Bản được hưởng thuế quan tối thiểu.

Phần Tình hình chính trị, Người thông báo về việc Chính phủ thuộc địa hết sức ngăn cản thanh niên An Nam sang học ở Pháp, do sợ bị tuyên truyền cộng sản. Các báo ở An Nam nói về việc thành lập một Uỷ ban ở Pari để nghiên cứu khả năng bán Đông Dương cho một nước khác; chính quyền thuộc địa đang quảng cáo cho một Hội đồng tư vấn của Chính phủ gồm 27 người Pháp và 17 người An Nam.

Nguyễn Ái Quốc còn báo cáo tỷ mỷ về Đảng Lập hiến ở An Nam, chương trình hành động của đảng đó, thái độ trở mặt của chúng đối với triều đình An Nam, công kích chủ nghĩa cộng sản, hô hào sự hợp tác với Pháp.

Cuối bản báo cáo, Người viết: "Hai trăm học sinh trẻ tuổi của tỉnh ở Nam Kỳ đã biểu tình trước đồn cảnh sát đòi thả hai người bạn của họ bị bắt giữ. Đồng thời, họ doạ bãi khoá nếu bạn của họ không được thả ngay. Họ đã thắng lợi. Đấy là lần đầu tiên, ở Đông Dương xảy ra một việc như vậy. Đó là một dấu hiệu của thời đại".

- Ngày 22: Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho một cán bộ phụ trách Ban Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, thông báo "đã tìm thấy ở đây một vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó" và đề nghị "chỉ thị cho những đồng chí người Nga ở đây cũng nhận trách nhiệm về các công việc của Đông Dương, bởi vì một mình tôi không thể làm nhiều được". Thư còn cho biết Nguyễn Ái Quốc đã gặp một đồng chí người Malaca, nhưng mới được một lần vì có thể người đó đã về nước. 

- Trong năm

+ Nguyễn Ái Quốc hoàn thành bản thảo tác phẩm Đông Dương (1923 - 1924), gồm  các phần sau: Những tội ác của chủ nghĩa quân phiệt; Những thảm hoạ của nền văn minh; Đời sống kinh tế Đông Dương; Tâm địa thực dân; Các quan cai trị; Ăn bám và hỗn độn; Tập đoàn kẻ cướp; Sự nhượng quyền và những kẻ được nhượng quyền; Công chính; Tạp dịch hay là khổ sai; Chính sách ngu dân;  Báo chí; Thuế khoá; Cuộc kháng chiến; Giáo hội; Công lý; Nước An Nam dưới con mắt người Pháp.

Với cách viết rất mới mẻ, giọng văn châm biếm sâu sắc pha chút dí dỏm hài hước song đầy tính chiến đấu, dẫn chứng bằng những sự việc có thật, những số liệu cụ thể trên báo chí, bằng những lời thú nhận từ quan toàn quyền, thống đốc, công sứ đến những viên chức thực dân bình thường và của cả các nghị sĩ chính quốc, tác phẩm là một bản tố cáo đanh thép tội ác và tâm địa của thực dân Pháp, những thủ đoạn ghê tởm mà chúng tiến hành ở xứ Đông Dương và thảm hoạ mà dân bản xứ đang phải chịu đựng.

+ Tại Mátxcơva, Nguyễn Ái Quốc viết Báo cáo Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ.

Mở đầu, Người viết: "Cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như ở phương Tây". Người đã phân tích những nét riêng của các giai cấp như "đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ", "Không có tỉ phú người An Nam", "nếu nông dân gần như chẳng có gì thì địa chủ cũng không có vốn liếng gì lớn; nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc; người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có tơrớt. Người thì nhẫn nhục chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình".

Người nhận định rằng xã hội Ấn Độ, Trung Quốc đều không giống xã hội phương Tây về cấu trúc kinh tế.

Bản báo cáo viết: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại".

Người nhận định: "Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước", "Giờ đây người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ". Báo cáo nêu lên một số kiến nghị như bằng con đường hợp pháp lập các lãnh sự quán Nga ở một số nơi như Sài Gòn, Hà Nội, Vân Nam để nó trở thành trung tâm tuyên truyền; một số việc Đảng Cộng sản Pháp phải làm, ở Nga phải làm.

Cuối báo cáo, Người nêu lên những điều kiện để cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương thắng lợi.

* Tháng 12-1925

- Ngày 3: Từ Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân thông báo rằng đã tham khảo ý kiến Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về vấn đề Người trực tiếp liên hệ với Ban Chấp hành Trung ương Quốc dân Đảng với tư cách đại diện chính thức của Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân, nhưng theo ý kiến của các đồng chí Trung Quốc, việc ấy không cần thiết, vì vẫn có thể thu thập được mọi thông tin về vấn đề nông dân qua các đồng chí của chúng ta.

Thư còn báo cho biết: bắt đầu từ tháng này, Quốc dân Đảng sẽ phát hành một bán nguyệt san về nông dân. Số đầu tiên sắp ra mắt trong vài ngày tới. Và nhắc Đoàn Chủ tịch gửi cho tài liệu về phong trào nông dân quốc tế để dịch và in trong tạp chí của Quốc dân Đảng.

Cuối thư ký tên: Nilốpxki (NAQ.)

- Trong năm.

+ Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, cũng với nhan đề Lênin và các dân tộc thuộc địa, đăng trên báo Bakinxki Rabôtri (Liên Xô), số 16. Bài báo nêu rõ: mặc dù Lênin đã mất, nhưng còn có Đảng Cộng sản và Quốc tế Cộng sản tiếp tục sự nghiệp của Người. Nhân dân các dân tộc bị áp bức hiểu rằng, sự nghiệp của Lênin không bao giờ mất, và họ vẫn hy vọng được giải phóng vì vẫn còn Đảng của Lênin. Họ đặt hy vọng vào đảng này, cũng như trước đây đã đặt hy vọng vào Lênin.

Kết luận, bài báo nhắc lại điều mà tác giả đã khẳng định trong bài Lênin và các dân tộc thuộc địa, đăng trên báo Pravđa, ngày 27-1-1924. "Khi còn sống, Lênin là người thầy, người cha của nhân dân bị áp bức. Sau khi mất, người là ngôi sao sáng chỉ đường tiến tới sự nghiệp giải phóng vĩ đại của nhân dân bị áp bức. Lênin sống mãi trong lòng mọi người dân nô lệ ở các nước thuộc địa!". 

+ Nguyễn Ái Quốc viết bài Văn minh tư bản chủ nghĩa và phụ nữ ở các thuộc địa, nói về số phận thảm thương của phụ nữ và trẻ em người bản xứ phải đi làm thuê trong các hầm mỏ của các ông chủ thực dân.

Lấy việc bóc lột trong các hầm mỏ ở Ấn Độ thuộc Anh, tác giả muốn để mọi người "thấy thứ nhân đạo và văn minh của bọn con buôn của đế quốc Anh". Trong số 252 hầm mỏ ở Ấn Độ được khai thác (tính đến năm 1921), thực dân Anh đã dùng tới 42.000 phụ nữ và 1.171 trẻ em.

Bài viết có đoạn: "Thật là một sự nhục nhã cho thế kỷ XX khi phải thấy những phụ nữ bước run run, đầu đội thúng than nặng, mà vẫn phải bước vì đói; và những trẻ em từ 12 đến 13 tuổi bò trong những đường hầm chật hẹp vừa đi bằng bốn chân, vừa dùng răng kéo một thúng đầy!".

Trong năm, Người còn viết câu chuyện ngụ ngôn Loài vật tranh nhau công trạng.

Nhân vật trong truyện là Rồng, Tôm, Cừu, Bò, Cua, Rắn, Voi, Lươn, Chuột, Gà trống, Cá chép, Ếch. Ngoài con Rồng mày râu óng ánh, mào và vảy rực rỡ lên tiếng trước tiên và nói rằng: "Ta là thuỷ tổ của giống nòi An Nam từng chứng kiến sinh ra biết bao vị anh hùng lừng lẫy", những con vật còn lại đều phát biểu thương hại cho người An Nam, những kẻ nô lệ tội nghiệp mà số phận không được bằng mình. Cuối cùng đến lượt Ếch, Ếch nói: "- Hỡi anh em, suy đi tính lại, nếu thực sự chúng ta thương xót người An Nam thì hãy cùng nhau đi cứu họ. Loài Ếch hèn mọn chúng tôi nhờ có kêu ca mà làm trời phải mủi lòng, và lẽ nào vô cớ trời lại bỏ ngoài tai lời cầu khẩn mà để loài Ếch vĩnh viễn bị tận diệt? Nếu họ đồng tâm và đồng sức, nếu họ liên kết trong ngoài, thì người Pháp sẽ mất tinh thần, kinh hãi và phải trả lại cho họ những quyền tự do của họ. Ôi, những người An Nam, các anh phải luôn nhớ rằng đoàn kết làm nên sức mạnh!". 

- Cuối năm: Tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp nhan đề Le procès de la colonisation française (Bản án chế độ thực dân Pháp) được xuất bản tại Pari, do Thư quán Lao động (Librairie du Travail) ấn hành.

Nội dung cuốn sách dựa trên cơ sở các bài viết của Người trong thời gian từ 1921 - 1924, chia thành 12 chương:

Cuốn sách in năm 1925 tại Pháp mở đầu có Lời giới thiệu của Nguyễn Thế Truyền, tiếp đó là 12 chương: Chương I. Thuế máu; Chương II. Việc đầu độc người bản xứ; Chương III. Các quan thống đốc; Chương IV. Các quan cai trị; Chương V. Những nhà khai hoá; Chương VI. Tệ tham nhũng trong bộ máy cai trị; Chương VII. Bóc lột người bản xứ; Chương VIII. Công lý; Chương IX. Chính sách ngu dân; Chương X. Chủ nghĩa giáo hội; Chương XI. Nỗi khổ nhục của người phụ nữ bản xứ; Chương XII. Nô lệ thức tỉnh.

Cuốn sách đã thu thập những tài liệu người thực việc thực xảy ra ở các thuộc địa của Pháp nhằm vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với người dân thuộc địa. Cuốn sách còn giới thiệu Lời kêu gọi của Quốc tế Nông dân gửi nông dân lao động các thuộc địa, giới thiệu Tuyên ngôn của Hội liên hiệp thuộc địa, trong đó có đoạn viết:

"Anh em phải làm thế nào để được giải phóng?

Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em.

Hội liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong công cuộc ấy!".

Cuối sách là phần Phụ lục: Gửi thanh niên Việt Nam. Bức thư đã cảnh tỉnh thanh niên Việt Nam đang an phận làm nô lệ. Bức thư nêu gương thanh niên một số nước đang đấu tranh cho nền độc lập ngày mai của họ.

Kết luận, bức thư viết: "Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất, nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh".

* Tháng 12-1926

- Ngày 10: Trong bài thứ ba viết về Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi, về tình hình ngoại giao, Nguyễn Ái Quốc cho biết các cường quốc nước ngoài vẫn "tiếp tục quan hệ với một chính phủ mà quyền hạn không vượt quá các tường thành của Bắc Kinh, một chính phủ chỉ có cái tên, mà lý do duy nhất tồn tại là sự công nhận ngoại giao của các cường quốc". Tuy nhiên, lập trường nào của họ đã có sự thay đổi, họ "có thể ký với Chính phủ Quốc dân một thứ tạm ước, chẳng hạn thừa nhận nó bình đẳng với Chính phủ Bắc Kinh".

Nguyễn Ái Quốc còn cho biết, theo dư luận của báo chí, trước sức tiến công của Quân Quốc dân, nhiều nơi như ở Hán Khẩu và Thượng Hải đã lấy cớ "cứu tính mạng và của cải người nước ngoài bị đe doạ" để yêu cầu các cường quốc can thiệp.

Mặc dù vậy, Nguyễn Ái Quốc vẫn nhận định: "Cho đến nay, các sự kiện đã diễn ra theo kế hoạch Chính phủ định ra và kế hoạch ấy được thực hiện dễ dàng là do dân chúng nông thôn tận tình, do có sự đồng lòng giữa những nhà chức trách dân sự và quân sự, do lòng mong muốn chung góp phần cải tổ lại nước Trung Hoa. Cho đến nay, chưa bao giờ dân chúng Trung Quốc lại nêu một tấm gương về sự đoàn kết dân tộc, về chính trị, tốt đẹp đến như thế...".

- Ngày 12: Bài viết của Nguyễn Ái Quốc, nhan đề Bà Trưng Trắc, ký bút danh H.T., đăng trên báo Thanh niên, số 73. Sau khi thuật lại cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng Trắc, Trưng Nhị, tác giả bình luận: "Can đảm thay! Phận thuyền quyên vì nước quên mình! Tuy chỉ trong 3-4 năm nhưng cũng đủ làm cho bọn tu mi quân giặc mất vía". Và kêu gọi:"Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà, con gái còn biết K. m . Huống chi bây giờ hai chữ "nữ quyền" đã rầm rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị em ơi! Mau mau đoàn kết lại!". 

- Ngày 24: Nguyễn Ái Quốc viết bài thứ tư về Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi. Ngoài việc phản ánh một số nét về tình hình ở Bắc Kinh, Thiên Tân và Quảng Đông, bài viết tập trung nói về chính sách ngoại giao của Anh ở Trung Quốc.

Theo tác giả, nước Anh đang thi hành chính sách ngoại giao hai mặt ở Trung Quốc. Một mặt, trong khi tiếp tục duy trì quan hệ với Bắc Kinh, Anh đã cử đại diện tiếp xúc và hội đàm với Chính phủ Quốc dân nhằm mục đích lôi kéo Trung Hoa Dân quốc tham gia vào sự phòng thủ và duy trì những hiệp ước bất bình đẳng cần phải được xoá bỏ. Mặt khác, tăng cường lực lượng hải quân ở các cửa biển, hòng gây áp lực với Chính phủ Quốc dân.

Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc nhận xét, "dư luận nhân dân tố cáo kịch liệt mưu toan ngoại giao nhằm cung cấp cho kẻ thù của Chính phủ Quốc dân những phương tiện để có tiền của chống lại Chính phủ ấy", "báo chí của phái dân tộc chủ nghĩa không che giấu sự bất bình lớn của mình, và đã có những lời bình luận không có lợi cho nước Anh". 

- Ngày 31: Chính phủ Quốc dân sau một năm là nội dung chính bài viết thứ năm Các sự biến ở Trung Quốc của đặc phái viên của chúng tôi của Nguyễn Ái Quốc. Tác giả điểm lại cách nhìn nhận của các nước Viễn Đông, của giới ngoại giao nước ngoài về Chính phủ Quốc dân một năm trước đây, họ cho rằng chính phủ đó chỉ là "một nhúm gây rối làm tay sai cho Quốc tế III, nếu không phải là cho nước Nga Xôviết", rằng "Tất cả các cuộc biểu tình của thợ thuyền ở miền Nam cũng như ở miền Bắc và miền Trung, của Trung Quốc được tổ chức dường như là do những người bônsêvích lãnh đạo", rằng "Những người dân tộc chủ nghĩa đòi hỏi huỷ bỏ những hiệp ước giữa Trung Quốc với nước ngoài không có lợi cho quyền lợi của dân tộc Trung Hoa, đều là những nhân viên "đỏ" tay sai của Mátxcơva", v.v..

Nhận định về tình hình của Chính phủ Quốc dân sau một năm, tác giả viết: "Dư luận nước ngoài, tuy còn chống đối những người dân tộc chủ nghĩa, bây giờ không còn cố chấp như đầu năm trước", "các giới chính trị của phần lớn các nước cũng xem xét những khả năng ấy", "các cường quốc nước ngoài công nhận Chính phủ", "Chính đảng mạnh, Quốc dân Đảng, chính đảng duy nhất có một tổ chức cho phép tiếp xúc thường xuyên với các giai cấp khác nhau trong nhân dân Trung Quốc, được thừa nhận như là người đại diện của những khát vọng dân tộc Trung Hoa, và Chính phủ Quốc dân, chính phủ duy nhất xứng đáng với cái tên ấy tồn tại ở Trung Quốc, được xem như là chính quyền duy nhất có thể nói chuyện được".

Nguyễn Ái Quốc cũng nêu một trong những lý do khiến dư luận nước ngoài đã có sự đánh giá khác về Chính phủ Quốc dân chỉ sau một năm: "Dư luận nước ngoài nhận thấy rằng Quốc dân Đảng thực sự mong muốn lợi ích cho Trung Quốc và Chính phủ Quốc dân thành thực mong muốn đạt điều đó.

Người nước ngoài nhận thấy rằng sau một năm thành lập Chính phủ Quốc dân ở Quảng Châu và ở các tỉnh, sự kiểm soát của những người dân tộc chủ nghĩa lan ra dần dần, những biện pháp về chính trị và hành chính thực sự nhằm mục đích thiết lập ở Trung Quốc một chính phủ của dân, do dân và vì dân, theo ba nguyên tắc lớn của người sáng lập Quốc dân Đảng". 

* Trong năm 1928

Nguyễn Ái Quốc viết bài  Đông Dương khổ nhục, ký bút danh NGUYỄN.

Tác giả tố cáo chính quyền thuộc địa, từ kẻ đại diện tối cao của Nhà nước chính quốc đến những tên thực dân bình thường, đều tự ý và đua nhau giết hại, bóc lột đến tận xương tuỷ xứ Đông Dương đã bị chinh phục và dân tộc Đông Dương đang bị đày đọa này. Tội ác của bọn côn đồ đó diễn ra hằng ngày và không đủ thì giờ để kể cho xiết. Đông Dương khổ nhục. Nhưng giờ đây, khi ách áp bức càng đè nặng lên vai dân chúng bao nhiêu thì dân chúng chống lại càng nhiều bấy nhiêu. Điều này chứng tỏ rằng, bây giờ căm hờn đã sôi sục trong lòng những người nô lệ và từ đây chủ nghĩa đế quốc Pháp không còn có thể bóc lột dân chúng Đông Dương mà không gặp phải những cuộc đấu tranh sinh tử để giành lại tự do và quyền sống. Bức màn mà chính phủ thuộc địa dựng lên để giấu giếm tội ác của chúng, bưng bít những tiếng thét căm hờn của người bản xứ và che đậy những cuộc khởi nghĩa bùng nổ liên tiếp, đã bị xé toang. Tội ác của chúng đã phơi bày trước giai cấp vô sản thế giới, đặc biệt là trước thợ thuyền Pháp.

Nhân danh Đông Dương khổ nhục, tác giả kêu gọi những ai đang đấu tranh ở khắp nơi, kêu gọi những người bạn Nga đã tự giải phóng mình khỏi tay bọn cường quyền: “Những người bạn bất hạnh của các bạn hiện đang giãy giụa ở Đông Dương. Họ đang trải qua những giờ phút khó khăn để tự giải phóng. Đế quốc Pháp đang giết hại họ, đang tước đoạt của cải của họ. Mong các bạn nghĩ tới họ; tiếng thét căm thù của họ phải được hoà lẫn với tiếng thét của các bạn để chặn bàn tay giết người của bọn đế quốc Pháp ăn cướp. Mong rằng sự quan tâm của các bạn đối với phong trào đấu tranh sẽ cổ vũ họ trong tương lai lật đổ được bọn đế quốc áp bức bóc lột”. 

* Tháng 12-1929, ngày 23: Nguyễn Ái Quốc đến Trung Quốc chuẩn bị cho Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam. 

* Ngày 31- 12-1930.

Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi Ban Phương Đông báo tin “Một đại biểu Đảng Mã Lai đã đến đây hôm qua, 30-12-1930”, và cho biết “Hai đồng chí Việt Nam phụ trách liên lạc đã bị bắt ngày 11-12-1930, 11 đồng chí bị trục xuất khỏi Xiêm mới đến”, “hai đại biểu và một học sinh đã về đây ngày 31-12-1930, một người đã trở lại làm việc cũ”, “liên lạc của chúng ta đã bắt đầu tổ chức lại”...

Cuối thư, Người viết: “Tôi gửi cho các đồng chí một bài báo viết về Việt Nam”... và “rất nhiều bài khác nhưng không thấy một bài nào đăng ở Inprekorr...”

* Tháng 12- 1931

Ngày 6- 6, Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát Hồng Kông bất ngờ vây bắt tại ngôi nhà số 168, đường Tam Lung, Cửu Long.

- Ngày 1: Đơn kháng án của Nguyễn Ái Quốc gửi lên Hội đồng Cơ mật Hoàng gia Anh được Toà án tối cao Hồng Kông chấp thuận.

- Ngày 17: Nguyễn Ái Quốc nhận được thư kèm theo 300 yên và thuốc men của Thái tử Cường Để từ Nhật Bản gửi khi biết Người bị ốm nặng trong nhà ngục ở Hồng Kông.

* Ngày 28- 12- 1932: Nguyễn Ái Quốc được đưa ra khỏi bệnh viện và được tự do.

* Khoảng mùa thu đến cuối năm 1933

Ở Thượng Hải, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục tìm cách bắt liên lạc với các tổ chức cách mạng và đồng chí của mình. Nhờ đọc báo, Người được biết một đoàn đại biểu từ châu Âu đến Viễn Đông tuyên truyền chống chiến tranh đế quốc đang có mặt ở đây, trong đoàn có Pôn Vayăng Cutuyariê. Người liền viết thư gửi cho Pôn, thuê một chiếc xe du lịch đến tự tay bỏ vào thùng thư trước nhà bà Tống Khánh Linh để nhờ bà chuyển giúp tới Pôn Vayăng Cutuyariê.

Vài hôm sau, Nguyễn Ái Quốc gặp Pôn Vayăng Cutuyariê. Người kể cho Pôn Vayăng Cutuyariê biết hoàn cảnh khó khăn của mình. Còn Vayăng Cutuyariê nói cho Nguyễn Ái Quốc rõ tình hình phong trào cách mạng Đông Dương và phong trào cách mạng thế giới thời gian qua. Mấy ngày sau cuộc gặp gỡ này, Nguyễn Ái Quốc đã chắp được liên lạc với đoàn thể. Sau này, Người có dịp kể lại nỗi vui mừng của Người lúc ấy:

“Ba năm lưu lạc linh đinh,

Nay đà trở lại trong đại gia đình công nông”.

* Tháng 10 đến tháng 12- 1934: Ở Trường Quốc tế Lênin, lúc đầu Nguyễn Ái Quốc sinh hoạt trong nhóm tiếng Trung Quốc. Vài ngày sau, thấy không thích hợp, Người được chuyển sang sinh hoạt ở những nhóm tiếng Pháp. Người thường gặp gỡ nhóm học sinh Việt Nam học ở Trường đại học Cộng sản Phương Đông để giúp đỡ họ trong học tập lý luận cũng như trong sinh hoạt.

* Khoảng cuối năm 1936: Sau khi nhận công tác tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc (Lin) chuyển chỗ ở về phố Bansaia Brônnaia, nhà số 6a, phòng 417.

* Khoảng cuối năm 1937: Được sự giúp đỡ của các giáo sư, Nguyễn Ái Quốc chuẩn bị tư liệu để bắt tay vào viết bản luận án với đề tài do Người tự chọn: Cách mạng ruộng đất ở Đông Nam Á.

* Tháng 12- 1938: Nguyễn Ái Quốc viết bài Người Nhật Bản muốn khai hoá Trung Quốc như thế nào, ký tên P.C. Lin .

Dưới danh nghĩa một nhà báo Trung Quốc, bằng cách trích những đoạn trong một cuốn sách của một tác giả phương Tây và một số tài liệu sưu tầm khác, Người đã công bố nhiều con số, nhiều việc làm mà phát xít Nhật đã gây ra ở trại tị nạn Nam Kinh từ giữa tháng 12-1937 đến giữa tháng 12-1938. Bài viết tập trung vào chủ đề “Người Nhật Bản và trại những người tị nạn ở Nam Kinh” với các vấn đề “Hãm hiếp”, “Những vụ tàn sát”. Qua đó, Người tố cáo những vụ tàn sát dã man, như hàng chục nghìn đàn bà, con gái Trung Quốc ở nhiều lứa tuổi (kể cả những em gái dưới 10 tuổi và cả những bà già 60 tuổi) bị giặc Nhật bắt cóc và hãm hiếp.

Theo Người, những vụ việc, những con số khách quan ấy tuy chưa phản ánh đầy đủ tội ác của phát xít Nhật, nhưng “cũng đã đủ cho người ta một ý niệm về những gì mà bọn Nhật đã và đang tiến hành ở Trung Quốc. Và cũng như những gì mà chúng nhất định sẽ tiến hành tại các nước khác ở châu Á, nếu một khi chúng đã thắng được nhân dân Trung Quốc”.

Tác giả kết luận: “Bọn phát xít dã man tưởng rằng chúng có thể dùng khủng bố để làm bại hoại tinh thần của Chính phủ và nhân dân Trung Quốc. Nhưng chưa bao giờ nhân dân và quân đội Trung Quốc lại đoàn kết và kiên quyết như ngày nay để đánh tan giặc ngoại xâm! Những sự tàn bạo của bọn Nhật sẽ được đáp lại một cách đích đáng bằng chủ nghĩa anh hùng vô song của những người Trung Hoa đang chiến đấu cho nền độc lập và sinh mệnh của mình”.

* Khoảng cuối năm 1939

Nguyễn Ái Quốc bí mật gặp ông Hồ Học Lãm, bấy giờ đã theo Bộ Tổng tham mưu quân Quốc dân Đảng rút về Trùng Khánh từ năm 1937.

Ông Lãm đã báo cho Người biết một số tình hình của Chính phủ Tưởng Giới Thạch, về hoạt động của Lê Thiết Hùng giúp Đảng Cộng sản Trung Quốc trong năm lần quân Tưởng vây quét khu Xôviết.

Nguyễn Ái Quốc đã nhờ ông Lãm báo tin cho Lê Thiết Hùng tìm cách ra khỏi quân đội Tưởng, trở về Quế Lâm.

* Tháng 12- 1940

- Đầu tháng: Từ Nam Ninh, Nguyễn Ái Quốc trong vai một nhà báo Trung Hoa, Phạm Văn Đồng trong vai phiên dịch cùng Phùng Chí Kiên, Đặng Văn Cáp... đi thuyền về Điền Đông. Đến Điền Đông, Nguyễn Ái Quốc lưu lại đó, cử Phạm Văn Đồng cùng một số đồng chí về Tĩnh Tây trước để nắm tình hình và tìm Vũ Anh lên gặp Người.

Sáng hôm sau, Nguyễn Ái Quốc được các đồng chí Vũ Anh, Hoàng Sâm, từ Tĩnh Tây đến đón.

- Một buổi sáng, Nguyễn Ái Quốc đến Tĩnh Tây. Người được bố trí ở nhà một cơ sở vốn là một gia đình Trung Quốc nghèo. Người bảo Vũ Anh về nước tìm một địa điểm bí mật, có hàng rào quần chúng bảo vệ và có đường rút lui.

- Tại Tĩnh Tây, Nguyễn Ái Quốc triệu tập Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên và Đặng Văn Cáp bàn việc mở lớp huấn luyện để chuẩn bị về nước.

- Ngày 1: Bài Bịa đặt của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Vạch trần mánh khoé bịa đặt của Nhật và một số nước phương Tây, mà “Bịa đặt là một tội ác”, bài báo viết: “Ấy vậy mà, từ khi Chiến tranh đế quốc lần thứ hai bùng nổ đến nay, thói bịa đặt đã trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách ngoại giao của một số nước, không những các phóng viên thời sự, các chuyên gia tuyên truyền của họ bịa đặt, thậm chí cả nhà cầm quyền của đường đường một nước lớn cũng bịa đặt". Nhưng “giải quán quân thế giới về bịa đặt, rốt cuộc giặc lùn đã giành được”. Sau khi nêu lên những điều bịa đặt “lớn nhất” do nhà đương cục Nhật Bản dựng lên “trong hai tuần lễ vừa qua”, bài báo chỉ rõ: “Dù bịa đặt về phương diện nào thì cũng không ngoài mục đích gây chia rẽ. Kết luận của chúng ta là: Điều bịa đặt còn độc hại hơn cả hơi độc. Chúng ta phải đề cao cảnh giác, chỗ nào cũng phải đề phòng, đừng bị mê hoặc bởi những lời bịa đặt”.

- Ngày 2: Bài Nhân dân Việt Nam và báo chí Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Bài báo kể qua các cuộc đấu tranh chống Pháp trong lịch sử cận đại Việt Nam và phê bình một số cơ quan thông tấn báo chí Trung Quốc (ám chỉ "Trung ương xã", cơ quan thông tấn của Quốc dân Đảng lúc bấy giờ) "dường như đã không bày tỏ sự đồng tình đối với cuộc đấu tranh gian khổ của nhân dân Việt Nam, trái lại còn đăng tải không có sự phê phán những lời xằng bậy của người Pháp (hoặc kẻ thù), nào là "Bạo động của dân bản xứ", nào là "Dân bản xứ Việt Nam nghe giặc lùn xúi giục, gây phiến loạn".

Bài báo chỉ rõ: "Phong trào giải phóng của Việt Nam là đội quân đồng minh trong cuộc kháng chiến chống Nhật của Trung Quốc. Về tinh thần cũng như về vật chất, chúng ta đều cần phải cổ vũ và giúp đỡ. Quốc phụ (chỉ Tôn Trung Sơn) từng dạy chúng ta: Giúp đỡ các dân tộc nhỏ yếu, cùng nhau phấn đấu giành lấy tự do độc lập. Cơ hội để thực hiện lời di huấn đó đã đến”.

- Ngày 4: Bài Ca dao Việt Nam và cuộc kháng chiến của Trung Quốc của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Dưới danh nghĩa một phóng viên Trung Quốc đưa tin nhân dân Việt Nam chi viện mọi mặt cuộc kháng chiến của Trung Quốc, tác giả bài báo viết: “đại đa số nhân dân Việt Nam đều hết sức đồng tình với cuộc kháng chiến của Trung Quốc. Họ cầu chúc chúng ta đánh thắng”. Việc giúp đỡ rất khảng khái, không sợ tù đày: “Có khi họ bí mật quyên góp, giấu giếm gửi cho các đoàn thể cứu quốc của kiều bào, vì vậy đã bị Chính phủ Pháp bắt giam hàng mấy chục vạn người”. Tuy vậy họ không chùn bước “Để đẩy mạnh tuyên truyền giúp Trung Quốc chống Nhật, đồng thời tránh sự can thiệp rắc rối của người Pháp", "Việt Nam độc lập đồng minh hội - một đoàn thể hoạt động rất hăng nhưng cũng rất bí mật - đã nghĩ ra được một cách rất tài tình: Họ đặt ra những bài hát theo những làn điệu quen thuộc và dạy cho trẻ con hát. Thế là tự nhiên các em bé Việt Nam trở thành những tuyên truyền viên rất đắc lực. Những bài hát đó chẳng mấy chốc đã truyền khắp cả nước”. Cuối cùng, bài báo đã chép lại một bài ca dao lưu hành ở Việt Nam, có nhan đề Cứu Trung Quốc là tự cứu mình. Nội dung như sau:

“Nhật Bản, phát xít ở phương Đông,

Dã man, cuồng bạo lại tàn hung.

Vào Trung Hoa, gây chiến xâm lược,

Nhân dân Trung Quốc khổ vô cùng.

Người thì bị giết, nhà bị đốt,

Núi đầy xương, đất đầy máu đỏ.

Tàu bay, bom đạn tránh làm sao?

Đói rét, ốm đau sống thật khó.

Họ đang đấu tranh rất gian khổ,

Giữ gìn dân chủ và hoà bình.

Họ đang cần có người viện trợ,

Họ đang cần được sự đồng tình.

Giặc Nhật tấn công cả thế giới,

Là kẻ thù chung toàn nhân loại.

Mau đứng lên giúp đỡ Trung Hoa.

Anh chị em Việt Nam ta hỡi!

Ra sức giúp cho người Trung Quốc,

Trung - Việt, khác nào môi với răng.

Nhớ rằng môi hở thì răng buốt,

Cứu Trung Quốc là tự cứu mình”.

- Ngày 5: Bài Mắt cá giả ngọc trai của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Việc quân Nhật cho tay chân đóng giả nhân dân Trung Quốc bỏ vùng bị chiếm “trở về trong lòng Tổ quốc”, để tung tin đồn nhảm, dò la tin tức, được tác giả bài báo gọi là “trò mắt cá giả ngọc trai”. Điều này cũng diễn ra tương tự ở Việt Nam, quân Nhật lập ra “đảng cách mệnh” Việt Nam giả để chia rẽ lực lượng nhân dân Việt Nam đấu tranh cho giải phóng dân tộc. Thế mà, một số tờ báo Trung Quốc lại đăng cái gọi là tuyên ngôn của "Đảng thống nhất cách mạng Việt Nam", tuyên truyền cho cái tổ chức Việt gian được đế quốc Nhật nuôi nấng này thành ra một “đảng cách mạng”. Bài báo chỉ rõ những điều xảo trá, lừa gạt của “Tuyên ngôn” này và kết luận: “Đối với nhân dân Việt Nam, đối với phong trào giải phóng dân tộc của Việt Nam, chúng ta phải giúp đỡ bằng mọi khả năng có thể. Nhưng đồng thời chúng ta cũng phải cẩn thận, phải vạch trần cái trò mắt cá giả ngọc trai đó”.

- Ngày 16: Bài Ý đại lợi thực bất đại lợi của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Mở đầu bài viết, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Đánh bạc với chiến tranh là thủ đoạn quen dùng của giai cấp thống trị Ý”. Người đã vạch rõ sự tính toán hơn thiệt của Ý khi cùng Anh - Pháp - Nga đánh Đức trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, rồi trong Chiến tranh thế giới thứ hai lại đứng về phía Đức chống Đồng minh. Song quân Ý đã thất bại nặng nề trong chiến tranh xâm lược và gặp “những chuyện bất lợi...". “Tất cả những sự việc đó cho chúng ta thấy rõ rằng giấc mộng của Mútxôlini muốn khôi phục lại Impiris Romano đã thành bong bóng xà phòng, và cái ngày mà nhân dân Ý thoát khỏi gông xiềng phát xít đã sắp đến rồi”.

- Ngày 18: Bài Việt Nam “phục quốc quân” hay là “mại quốc quân” của Nguyễn Ái Quốc, ký bút danh Bình Sơn, đăng trên Cứu vong nhật báo. Mở đầu bài viết, tác giả vạch rõ âm mưu của Chính phủ Nhật “đối xử rất tốt với những thanh niên Việt Nam sang Nhật, và lợi dụng phong trào chống Pháp để hù doạ đế quốc Pháp”. Song, sau đó lại cấu kết với Pháp, trục xuất số thanh niên này, chỉ giữ lại một số người, trong đó có Trần Mỗ, tức Trần Văn An, trên thực tế là một tên bán rẻ dân tộc, lập ra tổ chức phục quốc quân để lừa bịp nhân dân, phục vụ ý đồ của Nhật. Bài báo phê bình sai lầm của một số tờ báo Trung Quốc coi Việt Nam “phục quốc quân” là “đội tiên phong cách mạng dân tộc” và chỉ rõ: “chúng ta cần phân biệt rõ các đoàn thể chính trị và vũ trang của Việt Nam, không nên nhầm các tổ chức Việt gian thành “phong trào dân tộc”, càng không nên nhầm phong trào dân tộc chân chính của Việt Nam là “bọn thổ phỉ” hoặc "bị kẻ địch xúi giục"".

* Tháng 12-  1941

- Ngày 6: Tại Pác Bó, Nguyễn Ái Quốc dự lễ kết nạp Nông Thị Trưng vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Lễ kết nạp do chi bộ cơ quan tổ chức.

Là một trong hai người giới thiệu, Người phát biểu: “Qua một thời gian khá dài, trong quá trình học tập và công tác, đồng chí Trưng đã tỏ ra có nhiều cố gắng, có đức tính hy sinh, kiên quyết cách mạng... Đồng chí đã xứng đáng là một đảng viên...”.

- Ngày 21: Bài Thế giới đại chiến và phận sự dân ta của Nguyễn Ái Quốc đăng trên báo Việt Nam độc lập, số 113. Sau khi phân tích diễn biến của cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai16, Người nêu câu hỏi: “Thế thì dân ta nên làm sao để tránh khỏi cái nạn ấy?” và Người tự trả lời: “Dân ta nên làm 2 việc:

1 là - Bất kỳ quân đội nào tới gần vùng mình, dân ta phải làm cách "nhà không vườn trống"... Bao giờ quân đội tới gần làng, trai tráng sẽ tránh đi, chớ để cho chúng bắt phu. Chỉ bao giờ Việt Minh có lệnh giúp cho quân đội nào thì dân ta sẽ giúp quân đội ấy.

2 là - Dân ta phải mau mau tổ chức lại. Nông dân phải vào "Nông dân Cứu quốc hội”. Thanh niên phải vào "Thanh niên Cứu quốc hội". Phụ nữ vào "Phụ nữ Cứu quốc hội". Trẻ con vào "Nhi đồng Cứu quốc hội". Công nhân vào "Công nhân Cứu quốc hội". Binh lính vào "Binh lính Cứu quốc hội". Các bậc phú hào văn sĩ vào "Việt Nam Cứu quốc hội"".

Cuối cùng, Người kêu gọi: “Hỡi đồng bào! Cơ hội giải phóng đến rồi, mau mau đoàn kết lại!!!”.

* Tháng 12- 1942

- Từ ngày 2 đến ngày 8: Từ nhà ngục Thiên Giang ( Trung Quốc), Hồ Chí Minh bị giải đi Liễu Châu. Chặng đường Thiên Giang - Lai Tân, sau một đoạn đường bị giải đi bộ, từ Hợp Sơn đến Lai Tân, Người bị giải đi trên một toa xe lửa chở than.

- Ngày 9: Hồ Chí Minh bị giải đến Liễu Châu.

- Từ ngày 10 đến cuối tháng: Tại Liễu Châu, sau một thời gian chờ đợi, Hồ Chí Minh bị giải đến một cơ quan chỉ huy của Quốc dân Đảng Trung Quốc và được biết phải đến Quế Lâm.

* Khoảng tháng 12-1943

Tại Liễu Châu, Hồ Chí Minh dự một bữa tiệc do Hầu Chí Minh, Chủ nhiệm Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu chiêu đãi. Trong bữa tiệc, Nguyễn Hải Thần đọc một vế thách đối: “Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”. Mọi người còn đang suy nghĩ thì Hồ Chí Minh ung dung đối lại: “Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”.

Mọi người vỗ tay tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi không ngớt: “Đối hay lắm!”. Nguyễn Hải Thần cũng cung kính nói: “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp. Bội phục! Bội phục!”.

- Bài Libăng đăng trên báo Đồng minh số 18, tháng 12-1943, giới thiệu về cuộc đấu tranh của nhân dân Libăng chống thực dân Pháp để giành được độc lập, tự do thực sự. Qua cuộc đấu tranh của nhân dân Libăng và sự đàn áp của thực dân Pháp, tác giả bài viết rút ra hai kết luận:

1- Bọn thực dân, dù là phe phái nào đều “mang tâm lang sói”, đàn áp cuộc đấu tranh của nhân dân bị áp bức.

2- Nhân dân Việt Nam “đang chuẩn bị đánh Nhật, đuổi Pháp để giành lấy sự độc lập tự do”, nên “rất đồng tình và mong cho công cuộc cách mạng của dân tộc Libăng được thắng lợi”.

* Tháng 12- 1944

- Khoảng đầu tháng: Hồ Chí Minh triệu tập Võ Nguyên Giáp và Vũ Anh đến Pác Bó. Người nghe Vũ Anh báo cáo về tình hình phong trào cách mạng trong ba tỉnh Cao - Bắc - Lạng và chủ trương phát động chiến tranh du kích của Liên tỉnh uỷ. Người chỉ định Võ Nguyên Giáp đảm nhiệm công tác thành lập lực lượng vũ trang tập trung.

Đêm ấy, ba người cùng ngủ trong một căn lều lạnh giá, không đèn đóm, mỗi người gối trên một khúc gỗ cứng, trò chuyện đến hai, ba giờ sáng.

Chiều hôm sau, Người gặp Võ Nguyên Giáp và Lê Quảng Ba, thông qua kế hoạch thành lập Đội. Người thêm hai chữ “Tuyên truyền” vào tên Đội Việt Nam giải phóng quân.

+ Hồ Chí Minh tiễn chân Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám để xúc tiến thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Người căn dặn: “Nhớ bí mật: ta ở đông, địch tưởng ta ở tây. Lai vô ảnh, khứ vô tung”.

- Khoảng giữa tháng: Nguyễn Ái Quốc gửi một bức thư nhỏ (được đặt trong bao thuốc lá) cho Võ Nguyên Giáp. Đó là Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nội dung chỉ thị gồm ba vấn đề chủ yếu:

1. Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền. “Đội” có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được, làm cho các đội này trưởng thành mãi lên. Nguyên tắc tổ chức lực lượng là “sẽ chọn lọc trong hàng ngũ những du kích Cao - Bắc - Lạng số cán bộ và đội viên kiên quyết, hăng hái nhất và sẽ tập trung một phần lớn vũ khí để lập ra đội chủ lực".

2. Đối với các đội vũ trang địa phương: tập trung huấn luyện các cán bộ địa phương rồi đưa về huấn luyện ở các địa phương, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt, phối hợp tác chiến.

3. Về chiến thuật: “vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay Đông mai Tây, lai vô ảnh, khứ vô tung”.

Người khẳng định: “Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam"

* Tháng 12- 1945

- Ngày 1: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp các ông J. Xanhtơny, L.Pinhông và L.Capuýt tại Hà Nội. Cùng dự có các ông Hoàng Minh Giám và Võ Nguyên Giáp. Người tỏ ý muốn có cuộc gặp gỡ với Đô đốc Đácgiăngliơ để bàn và thảo một kế hoạch đàm phán Việt - Pháp.

17 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về vấn đề tự do ngôn luận, bổ khuyết Sắc lệnh Tổng tuyển cử, Sắc lệnh về Bộ Canh nông. Người thông báo đã đề nghị với Việt Nam Quốc dân Đảng hoãn cuộc đàm phán về những yêu sách của đảng ấy đến cuộc Tổng tuyển cử.

- Ngày 3: tại Nhà hát thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ khai mạc Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam. Phát biểu với hội nghị, Người nêu rõ: "Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự phân chia nòi giống, tiếng nói". Đồng thời, Người căn dặn các dân tộc thiểu số hiện nay cần ra sức Đoàn kết hơn trước chống xâm lăng; Tăng gia sản xuất; Cứu giúp đồng bào dưới xuôi về nạn đói, ủng hộ Chính phủ kháng chiến và cứu đói; Gây thân thiện giữa ta và Trung Hoa, nhất là các dân tộc ở các miền biên giới.

17 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ tiếp tục bàn về việc Tổng tuyển cử; vấn đề tìm người tài đức; vấn đề mua bán bất động sản của người Pháp; việc Ngân hàng Đông Dương Pháp chưa mở cửa để giải quyết vấn đề giấy bạc 500 đồng...

Trong ngày, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi đồng bào thiểu số, thông báo để đồng bào biết rằng ngày 3 - 12- 1945 “là một ngày rất vẻ vang cho nước Việt Nam, đó là ngày Đại hội của các dân tộc thiểu số lần thứ nhất. Hơn 20 dân tộc, họp lại một nhà, tay bắt mặt mừng, rất là thân ái. Đó là một cuộc Đại hội xưa nay chưa từng có, một cuộc thân thiện làm cho cả nước vui mừng”. Người đề nghị đồng bào dân tộc thiểu số “giúp đỡ cuộc kháng chiến, trồng trọt chăn nuôi, đoàn kết chặt chẽ, ủng hộ Chính phủ”... Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu lên những nhiệm vụ mà Chính phủ phải “gắng sức giúp các dân tộc thiểu số để mở mang nông nghiệp, nâng cao giáo dục...".

- Ngày 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho chiến sĩ cùng đồng bào Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Người ca ngợi gương chiến đấu hy sinh của đồng bào, chiến sĩ; khẳng định nhân dân cả nước luôn luôn bên cạnh đồng bào Nam Bộ, Nam Trung Bộ và chỉ rõ cuộc kháng chiến tuy có khó khăn nhưng nhất định thắng lợi.

17 giờ, Người dự họp Hội đồng Chính phủ bàn việc chọn thêm một số thân sĩ để mời ra ứng cử; xem xét vấn đề lương cho công chức; quyết định tổ chức Bộ Thanh niên; bàn việc sửa chữa đường sắt Hải Phòng - Vân Nam; lập Ban Báo chí, định những nguyên tắc kiểm duyệt và bàn việc trợ cấp cho hai bà Thành Thái và Duy Tân (mỗi bà 500 đ Đông Dương hàng tháng).

- Ngày 5: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp ba đại biểu Phụ lão Cứu quốc Hải Phòng. Theo yêu cầu của các đại biểu, Người nói chuyện về tình hình nước nhà, vấn đề cứu đói, công cuộc chống ngoại xâm và đường lối đối nội, đối ngoại của Chính phủ. Các đại biểu hứa với Người sẽ về giải thích cho quần chúng biết mọi công việc mà Chính phủ đang gắng sức làm để giành lại nền độc lập tự do cho nước nhà.

17 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn thêm về việc chọn người ra ứng cử Quốc hội và việc Ngân hàng Đông Dương đã thoả thuận đổi giấy bạc 500 đ cho người Việt Nam (trước đó Pháp quyết định ngừng tiêu giấy bạc 500 đ).

- Ngày 6: Tại Nhà hát thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự Lễ tuyên thệ ủng hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà của Hội Cựu binh sĩ Cứu quốc.

Cùng ngày, báo Việt Nam (số 19) công bố bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi hai ông Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh, kêu gọi sự đoàn kết và đưa ra những đề nghị cụ thể:

"a. Xin mời các đồng chí Quốc dân Đảng tham gia việc Tổng tuyển cử ở các nơi.

b. Xin cho chúng tôi biết những đồng chí ra ứng cử ấy muốn ứng cử ở nơi nào để cho tiện việc biên tên vào danh đơn ứng cử.

c. Các ông ấy được hoàn toàn tự do hoạt động ứng cử cũng như các đảng phái khác. Chúng tôi xin phụ trách bảo vệ và giúp đỡ các ông ấy.

d. Từ ngày nay cho đến ngày Quốc hội khai mạc, hai bên phải tôn thủ điều kiện đã cùng nhau ký tại ngày 24 tháng 11, tức là "không công kích nhau bằng lời nói và hành động".

- Ngày 7: tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông báo Việt Nam Quốc dân Đảng đòi giữ ba chức Bộ trưởng và chức Đổng lý Nội các. Người đề nghị giao cho Việt Nam Quốc dân Đảng các chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Vệ sinh, Thứ trưởng Bộ Giáo dục, Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền. Phó Chủ tịch Chính phủ hoặc Tham mưu trưởng, hoặc Trưởng đoàn Cố vấn. Ý kiến của Người được Hội đồng tán thành.

Hội đồng quyết định cử Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ kiêm giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.

Cùng ngày, thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh Gửi nông gia Việt Nam, đăng trên báo Tấc đất, số 1. Người chỉ rõ: “Hiện nay chúng ta có hai việc quan trọng nhất: cứu đói ở Bắc và kháng chiến ở Nam”, và kêu gọi nông dân: “Tăng gia sản xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”.

- Ngày 8: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về vấn đề điều đình với Việt Nam Quốc dân Đảng và quyết định nếu cuộc điều đình có kết quả thì Chính phủ sẽ hoãn cuộc Tổng tuyển cử để các ứng cử viên Quốc dân Đảng có thì giờ tham gia ứng cử.

- Ngày 9: tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo về vấn đề điều đình với Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh đồng minh Hội. Người cho biết họ không chịu chấp nhận những đề nghị của Chính phủ và chiều nay, Người tiếp tục đàm phán với họ.

- Ngày 10: tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ bàn về vấn đề Tổng tuyển cử, vấn đề điều đình với Việt Nam Quốc dân Đảng... Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Hội đồng tập trung bàn các vấn đề sau:

+ Làm thế nào để các Uỷ ban làng tổ chức cuộc bầu cử cho đúng;

+ Làm thế nào để các cử tri biết cách bỏ phiếu;

+ Làm thế nào để cho cử tri đi bỏ phiếu thật đông.

- Ngày 11: hồi 17 giờ 15, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ tiếp tục bàn về vấn đề Tổng tuyển cử và nghe báo cáo về vấn đề thương lượng với Việt Nam Cách mệnh đồng minh Hội và Việt Nam Quốc dân Đảng.

- Ngày 12: Chiều, tại phòng Hội đồng thị chính Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự cuộc họp mặt của các vị ra ứng cử đại biểu Quốc hội ở Hà Nội. Cuộc họp do cụ Nguyễn Hữu Tiệp, người cao tuổi nhất, chủ trì. Các ứng cử viên thảo luận hai vấn đề chính:

1. Lập một ban liên lạc làm trung gian.

2. Lập một chương trình của Mặt trận liên hiệp quốc dân với nguyên tắc chung là: thống nhất, kháng chiến, độc lập hoàn toàn, tăng gia sản xuất, xây dựng kinh tế.

- Ngày 13: lúc 10 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về vấn đề đổi giấy bạc 500đ, vấn đề đẩy mạnh cổ động và tuyên truyền phục vụ Tổng tuyển cử.

- Ngày 15: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào ngoại thành Hà Nội. Toàn văn bức thư như sau:

“Cùng toàn thể đồng bào nam, phụ, lão, ấu khu vực ngoại thành Hà Nội.

Tôi rất cảm động thấy toàn thể đồng bào ngoại thành Hà Nội đã có lòng quá yêu tôi, mà quyết nghị tôi không phải ứng cử trong kỳ Tổng tuyển cử sắp tới.

Nhưng tôi là một công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nên không thể vượt qua thể lệ Tổng tuyển cử đã định. Tôi đã ứng cử ở thành phố Hà Nội, nên không thể ra ứng cử ở nơi nào khác nữa.

Tôi thành thực cảm tạ toàn thể đồng bào nam, phụ, lão, ấu khu vực ngoại thành Hà Nội.

Hồ Chí Minh”

- Ngày 16: Bài viết: "Hồ Chủ tịch khuyên răn bộ đội", đăng trên báo Chiến thắng, tờ báo của Việt Nam Vệ quốc đoàn, xuất bản tại Hà Nội (số 16 và 18 ngày 16 và ngày 18-12-1945) ghi lại những khuyết điểm mà bộ đội phải sửa ngay. Đó là:

1. Ham hình thức mà không chú ý đến những điều thiết thực: Thích ăn mặc chải chuốt, may quần áo bằng vải đắt tiền, đi ủng, đeo súng cho ra vẻ sĩ quan, vài ngày lại giết bò, tìm chỗ đóng (quân) cho đẹp...

2. Không bí mật: Phải làm sao cho mình biết địch mà địch không biết mình.

3. Cẩu thả: Ngày thường không chịu phòng bị cẩn thận; ngay cả chỉ huy cũng chỉ dặn dò, hỏi han cấp dưới qua loa.

4. Công tác chính trị đối với dân chúng rất kém; có đồng chí cố ý tỏ ra là quan, là lính cho dân sợ.

5. Hiểu nhầm chữ "tự do": Quân đội không thể vô chính phủ được, phải có kỷ luật.

6. Làm việc không có kế hoạch: Công việc gặp gì làm nấy, hời hợt, không thiết thực, không có kết quả...

Từ thực tế trên, Người yêu cầu mọi người phải sửa chữa những khuyết điểm ngay và phải chú ý:

1. Phải gắng sức học tập.

2. Kỷ luật nghiêm: Ai nấy đều phải tuân theo kỷ luật; Không thể trì hoãn, phải làm kiên quyết và mau mắn.

3. Chịu khó, chịu khổ: Muốn giữ vững tinh thần chiến đấu, muốn dẻo dai trong lúc tác chiến, ngay bây giờ bộ đội phải tập ăn uống kham khổ, chịu đựng sự thiếu thốn cho quen; tập đi bộ, tập mang nặng, làm việc tỉ mỉ... Chịu khó chịu khổ là phương thuốc bổ cho tinh thần và lực lượng của bộ đội. Phải tham gia sản xuất để có rau ăn, trứng rán...

- Ngày 17: tại cuộc họp Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh báo cáo về việc Việt Nam Quốc dân Đảng yêu cầu tiếp tục cuộc điều đình và hoãn cuộc Tổng tuyển cử. Người đã yêu cầu Việt Nam Quốc dân Đảng viết rõ những đề nghị của họ.

Hội đồng Chính phủ đã quyết định tiếp tục cuộc điều đình với Việt Nam Quốc dân Đảng và hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày 6-1-1946 và gia hạn nộp đơn ứng cử đến hết ngày 27-12-1945.

- Ngày 18: Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tướng Trần Tu Hoà, đại diện của Bộ Tư lệnh quân đội Trung Hoa tại Việt Nam. Tướng Trần Tu Hoà thay mặt Bộ Tư lệnh quân đội Tưởng Giới Thạch ở Việt Nam trình bày về đề nghị: Bộ Tư lệnh quân đội Tưởng Giới Thạch ở Việt Nam sẽ đứng ra “điều đình”, thông qua hiệp thương giữa các đảng phái thành lập một Chính phủ liên hiệp lâm thời có đại biểu các tầng lớp tham gia để tổ chức cuộc Tổng tuyển cử và yêu cầu Chủ tịch Hồ Chí Minh lui thời gian tiến hành bầu cử lại hai tuần.

- Ngày 19: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về các vấn đề về tài chính (mua lại Nhà in Taupin, cho phép Nam Bộ phát hành ngân phiếu, phụ cấp đặc biệt cho người ít lương), vấn đề tư pháp, vấn đề người Trung Hoa yêu cầu Chính phủ mua gạo cho họ.

16 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư (bằng chữ Hán) gửi tướng Trần Tu Hoà. Trong thư, Người thông báo quyết định của Chính phủ Việt Nam sẽ lui ngày Tổng tuyển cử trong toàn quốc lại hai tuần. Đồng thời, Người giải thích rõ thêm một số vấn đề như tổ chức và thành phần Mặt trận Việt Minh, Cương lĩnh chính trị của Mặt trận Việt Minh, về tổ chức chính quyền ở địa phương, về việc triệu tập Quốc hội sau khi Tổng tuyển cử toàn quốc. Người còn gửi kèm theo bức thư một danh sách ứng cử viên tham gia Tổng tuyển cử của 11 tỉnh Bắc Kỳ. Người nói rõ: "Về ngoại giao tranh thủ sự giúp đỡ của các nước Đồng minh, trước hết là Trung Quốc. Liên lạc và hỗ trợ các dân tộc bị áp bức". "Khẩu hiệu của Việt Minh là liên Hoa, kháng địch, độc lập".

- Ngày 21: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn về vấn đề canh nông; nghe đề nghị của Việt Nam Quốc dân Đảng và quyết định sẽ đề nghị họ tham gia Chính phủ và ra ứng cử; vấn đề tư pháp: cử ra một tiểu ban để chọn nhân viên thẩm phán.

- Ngày 22: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các chiến sĩ miền Nam. Người thay mặt Chính phủ khen ngợi chiến sĩ ở các mặt trận miền Nam, đặc biệt là các chiến sĩ ở Nha Trang và ở Trà Vinh, đã làm gương anh dũng cho toàn quốc "Tổ quốc biết ơn các bạn, toàn thể đồng bào noi gương các bạn".

- Ngày 23: Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp với đại diện các đảng phái (Việt Minh, Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mệnh đồng minh Hội) bàn về việc thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời. Người đã ký vào Văn kiện 14 điều thoả thuận về cơ cấu thành phần trong Chính phủ mới và nhiều vấn đề quan trọng khác. Văn kiện này còn kèm theo 4 điều phụ kiện về tổ chức bộ máy Chính phủ và nhân sự giữ cương vị Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Bộ trưởng Quốc phòng và Nội vụ khi Chính phủ liên hiệp chính thức thành lập.

- Ngày 24: Sáng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho Việt Minh cùng với Nguyễn Hải Thần và Vũ Hồng Khanh thay mặt cho Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh Hội cùng ký tên công nhận các thoả thuận sau:

1. Độc lập trên hết, đoàn kết trên hết. Trên tinh thần thân ái và chân thành, cùng nhau thoả thuận để giải quyết mọi vấn đề khó khăn trước mắt. Ai dùng vũ lực gây ra những cuộc nội loạn sẽ bị quốc dân ruồng bỏ.

2. Kể từ ngày 25-12-1945, đôi bên phải ủng hộ một cách thiết thực cuộc Tổng tuyển cử, Quốc hội và kháng chiến.

3. Bắt đầu từ ngày 25-12-1945, đôi bên đều đình chỉ hết thảy những việc công kích nhau bằng ngôn luận và hành động.

10 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ thông báo về những thoả thuận đã đạt được với Việt Nam Quốc dân Đảng. Hội đồng còn bàn về các vấn đề tư pháp và giao thông.

- Ngày 25: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Các vị linh mục và đồng bào Công giáo Việt Nam nhân dịp Lễ Thiên Chúa giáng sinh. Bức thư có đoạn: "Trong lịch sử Việt Nam ta, lần này là lần đầu mà đồng bào công giáo ta làm lễ Nôen một cách vui vẻ sung sướng trong nước Việt Nam độc lập tự do. Tôi chắc rằng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của các vị Giám mục Việt Nam, đồng bào công giáo quyết một lòng với nhân dân toàn quốc để giữ vững nền tự do độc lập đó".

- Ngày 26: hồi 15 giờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phỏng vấn của các phóng viên báo hàng ngày và hàng tuần của Việt Nam (có hai đại biểu của báo Tiếng gọi Phụ nữ cũng tham gia). Người nêu rõ ý nghĩa của vấn đề đoàn kết giữa Mặt trận Việt Minh, Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh đồng minh Hội trong Chính phủ lâm thời mở rộng.

- Ngày 27: Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cảm ơn các ông bà: Bùi Huy Đức, Hoàng Gia Luận, Hồ Đắc Điềm, Hoàng Thị Đắc, Trần Hữu Vy đã đi đầu, đóng góp nhiều nhất cho phong trào nhường cơm sẻ áo, cứu giúp đồng bào đói khổ. Thư Người viết: “Ngoài sự tỏ rõ tấm lòng bác ái, sự giúp quyên của các ngài và các bà lại còn có ý nghĩa khác:

1. Là làm gương cho các nhà phú hộ khác, mong cho ai cũng đua nhau làm việc nghĩa.

2. Là tỏ rõ rằng các phú hộ tiên tiến Việt Nam ta đã thực hành câu: “Cứu một người hơn mười đám cháy”.

3. Là chứng tỏ rằng toàn quốc đồng bào ta, tầng lớp nào cũng sẵn lòng giúp Chính phủ; vì trách nhiệm của Chính phủ là phải giúp dân, các ngài, các bà giúp đồng bào tức là giúp Chính phủ".

- Ngày 28: hồi 10 giờ 30, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ bàn việc lập toà án ở huyện và tỉnh; vấn đề can thiệp để Chính phủ Xiêm (Thái Lan) thả chính trị phạm Việt Nam. Về vấn đề những quan lại bị Chính phủ Trần Trọng Kim “triệt hồi” và truy tố nhưng chưa đem xét xử, Hội đồng quyết định hoãn.

- Ngày 29: Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cho ông Hoàng Văn Đức - Phó Bí thư Tổng bộ Việt Minh để giao nhiệm vụ mời đại biểu của Đảng Dân chủ đến Bộ Nội vụ bàn cách đối phó với các đảng đối lập đang âm mưu tung quân ngăn cản đồng bào Thủ đô vận động tuyên truyền cho bầu cử sắp tới.

- Ngày 31: Hai bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ý nghĩa Tổng tuyển cử và Thế giới với Việt Nam (ký bút danh Q.Th), đăng trên báo Cứu quốc, số 130.

Bài ý nghĩa Tổng tuyển cử nêu rõ: “Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng; tức là dân chủ, đoàn kết”, và mong rằng toàn thể quốc dân sẽ hăng hái tham gia cuộc Tổng tuyển cử này.

Trong bài Thế giới với Việt Nam, tác giả trích dẫn ý kiến phát biểu của các nhà lãnh đạo, các chính khách, các Chính phủ Trung Hoa, Hoa Kỳ, Nga Xô viết, và những lời bình luận của báo chí thế giới bày tỏ sự ủng hộ đối với nền độc lập của Việt Nam. Bài báo kết luận: "Chúng ta cứ bền gan, vững chí xây đắp thực lực để kiên quyết chiến đấu, sức chiến đấu ấy sẽ làm cho hoàn cầu thừa nhận nền độc lập hoàn toàn của chúng ta".

10 giờ 45, Chủ tịch Hồ Chí Minh dự họp Hội đồng Chính phủ. Hội đồng nghe và thông qua chương trình buổi lễ nhậm chức của Chính phủ liên hiệp lâm thời sẽ tổ chức tại Nhà hát thành phố ngày 1-1-1946 và bài Chúc quốc dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc.

- Trong tháng

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi sau việc tàu bay địch tàn sát đồng bào Nam Bộ. Người kêu gọi đồng bào hãy tỏ cho người Pháp biết rằng:

“1. Chúng ta là một dân tộc yêu chuộng hoà bình, công lý, nhân đạo. Chúng ta phải khoan hồng và bảo vệ tính mệnh, tài sản cho họ.

2. Gặp hoàn cảnh nào, chúng ta cũng phải bình tĩnh, giữ trật tự, giữ kỷ luật.

3. Về cách đối đãi với người Pháp – cũng như về các việc khác – nhân dân phải tuyệt đối nghe theo mệnh lệnh của Chính phủ, không được tự ý làm bừa”.

Người đồng thời nhắc nhở tất cả người Pháp và người Việt đều phải đề phòng bọn khiêu khích, tránh sự hiểu lầm và xung đột giữa người Pháp và người Việt.

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi gửi đồng bào Bắc Bộ, nhắc nhở đồng bào phải biết theo mệnh lệnh của Chính phủ để "làm cho thế giới thấy rằng dân tộc ta xứng đáng độc lập, Chính phủ ta có đủ oai quyền". Người yêu cầu nhân dân Bắc Bộ đình chỉ việc bất hợp tác, giữ thái độ bình tĩnh giúp Chính phủ giữ gìn trật tự.

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho các chiến sĩ Nam Bộ và Nam phần Trung Bộ. Người ca ngợi tinh thần hy sinh cho dân tộc của các chiến sĩ Nam Bộ và Nam Trung Bộ trong ba tháng chiến đấu chống Pháp vừa qua và khẳng định: "Các bạn ở tiền tuyến không bao giờ cô độc, vì đã có cả một khối toàn dân đoàn kết làm hậu thuẫn cho mình. Thắng lợi cuối cùng nhất định về ta".

(Theo Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử - Tập 1,2,3 -  NxbCTQG,  năm 2006)

Lê Quang Thới (Tổng hợp)  

 




CHUYÊN MỤC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/