CÁC TIN LIÊN QUAN
Thúc đẩy phát triển doanh nghiệp trở thành động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng

Trong quý I/2024, cả nước có gần 59,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động, tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2023. Bình quân một tháng có gần 20 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động [1].

 

Tình hình doanh nghiệp đăng ký thành lập mới

Hoạt động sản xuất kinh doanh nhìn chung khởi sắc nên trong quý I năm nay số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng cả về số lượng, vốn đăng ký và số lao động so với cùng kỳ năm trước. Cả nước có hơn 36,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 332,2 nghìn tỷ đồng và tổng số lao động đăng ký gần 258,8 nghìn lao động,tăng 6,9% về số doanh nghiệp, tăng 7% về vốn đăng ký và tăng 21,9% về số lao động so với cùng kỳ năm 2023.

Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 3 tháng đầu năm 2024 là 724.507 tỷ đồng,giảm 4,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới là 332.175 tỷ đồng, tăng 7,0%. Có 9.761 doanh nghiệp đang hoạt động đăng ký tăng vốn trong 3 tháng đầu năm 2024, giảm 8,1% so với cùng kỳ năm 2023; số vốn đăng ký tăng thêm của các doanh nghiệp đang hoạt động đạt 392.332 tỷ đồng,giảm 12,1%. Vốn đăng ký bình quân trên một doanh nghiệp trong 3 tháng đầu năm 2024 đạt 9,2 tỷ đồng, tăng 0,1%.

Có 11/17 ngành có số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2023, cụ thể: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản (tăng 10,0%); Khai khoáng (tăng 17,7%); Công nghiệp chế biến, chế tạo (tăng 8,8%); Sản xuất phân phối, điện, nước, gas (tăng 5,3%); Xây dựng (tăng 4,4%); Bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy (tăng 13,0%); Vận tải, kho bãi (tăng 24,4%); Thông tin và truyền thông (tăng 2,3%); Giáo dục và đào tạo (tăng 6,9%); Nghệ thuật, vui chơi và giải trí (tăng 16,7%); Hoạt động dịch vụ khác (tăng 0,9%).

Các ngành còn lại ghi nhận số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm so với cùng kỳ năm 2023: Dịch vụ lưu trú và ăn uống (giảm 11,7%); Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (giảm 5,6%); Hoạt động kinh doanh bất động sản (giảm 2,0%); Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ (giảm 4,6%); Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (giảm 5,7%); Dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác (giảm 3,3%); …

Các vùng kinh tế – xã hội trên cả nước đều có số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm 2023: Đồng bằng sông Hồng có 10.868 doanh nghiệp, tăng 1,9%; Trung du và miền núi phía Bắc có 2.032 doanh nghiệp, tăng 23,0%; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 4.215 doanh nghiệp, tăng 0,7%; Tây Nguyên có 977 doanh nghiệp, tăng 7,5%; Đông Nam Bộ có 15.413 doanh nghiệp, tăng 10,4%; Đồng bằng sông Cửu Long có 2.739 doanh nghiệp, tăng 7,9%.

 

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/z5311950541763_9fb02bd63fb5e127b9d8a597afac876a.jpg

Tình hình doanh nghiệp quay trở lại hoạt động

 

Cũng trong quý I, cả nước có hơn 23,6 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2023.

Theo ngành kinh tế, số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng ở 8/17 ngành, cụ thể: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản có 341 doanh nghiệp; tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước; Công nghiệp chế biến, chế tạo 2.718 doanh nghiệp, tăng 6,3%; Sản xuất phân phối điện, nước, gas 780 doanh nghiệp, tăng 104,2%; Thông tin và truyền thông 564 doanh nghiệp, tăng 12,1%; Hoạt động kinh doanh bất động sản 1.035 doanh nghiệp, tăng 25,8%; Hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ 1.832 doanh nghiệp, tăng 4,9%; Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội 119 doanh nghiệp, tăng 6,3%; Hoạt động dịch vụ khác 724 doanh nghiệp, tăng 11,7%.

Các ngành còn lại ghi nhận số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động giảm, cụ thể: Khai khoáng 143 doanh nghiệp, giảm 15,4%; Xây dựng 2.918 doanh nghiệp, giảm 1,2%; Bán buôn; bán lẻ; sửa chữa ô tô, xe máy 7.977 doanh nghiệp; giảm 1,5%; Vận tải, kho bãi 1.105 doanh nghiệp, giảm 1,5%; Dịch vụ lưu trú và ăn uống 1.179 doanh nghiệp, giảm 4,6%; Hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm 206 doanh nghiệp, giảm 8,8%; Giáo dục và đào tạo 611 doanh nghiệp, giảm 8,3%; Nghệ thuật, vui chơi và giải trí 190 doanh nghiệp, giảm 10,0%; Dịch vụ việc làm; du lịch; cho thuê máy móc thiết bị, đồ dùng và các dịch vụ hỗ trợ khác 1.162 doanh nghiệp, giảm 8,7%;…

So sánh giữa số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và quay trở lại hoạt động với số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, trong quý I/2024, tổng số doanh nghiệp nước ta giảm 14,1 nghìn doanh nghiệp, bình quân một tháng giảm 4,7 nghìn doanh nghiệp.

 

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/z5311969709795_7e3747f8e421730de8d68bd6f24fd8d5.jpg

 

Bước sang quý II/2024, kinh tế – xã hội nước ta tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là nền kinh tế Việt Nam có độ mở lớn nên chịu tác động đan xen trước những khó khăn, thách thức của kinh tế thế giới; các biến động về kinh tế, chính trị, dịch bệnh, thiên tai khó dự báo trong khi nội lực của doanh nghiệp ít nhiều đã bị bào mòn. Cùng với đó, vị thế của Việt Nam không ngừng được nâng lên trên trường quốc tế, do đó cần đẩy mạnh cải cách, giải quyết triệt để những vấn đề nội tại của nền kinh tế cũng như mô hình tăng trưởng để tạo ra các động lực phát triển mới. Việt Nam đang có thế và lực mạnh để tận dụng cơ hội, phát triển kinh tế dựa trên khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, do đó, cần phát huy mạnh mẽ các nguồn lực, hỗ trợ phát triển cộng đồng doanh nghiệp thực sự là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

 Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2024 cho thấy: Có 22,1% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý IV/2023; 42,8% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 35,1% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn[2]. Dự kiến quý II/2024, có 45,4% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý I/2024; 36,6% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 18% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó, khu vực doanh nghiệp FDI và khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước lạc quan nhất với 82,2% số doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2024 tốt hơn và giữ ổn định so với quý I/2024; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp nhà nước là 78,1%.

Về khối lượng sản xuất, có 22,3% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý I/2024 tăng so với quý IV/2023; 38,9% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 38,8% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm[3]. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 44,1% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất tăng; 38,2% số doanh nghiệp dự báo ổn định và 17,7% số doanh nghiệp dự báo giảm.

Về đơn đặt hàng, có 20,9% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý I/2024 cao hơn quý IV/2023; 42,6% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và 36,5% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm[4]. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 42,2% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng tăng lên; 40,7% số doanh nghiệp dự kiến có đơn hàng ổn định và 17,1% số doanh nghiệp dự kiến đơn hàng giảm.

 

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/z5311956518800_c8ec60ea367beba91cafae125d2e03c4.jpg

 

 Về đơn đặt hàng xuất khẩu, quý I/2024 so với quý IV/2023, có 19,1% số doanh nghiệp khẳng định số đơn hàng xuất khẩu mới cao hơn; 47,3% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới ổn định và 33,6% số doanh nghiệp có đơn hàng xuất khẩu mới giảm. Xu hướng quý II/2024 so với quý I/2024, có 36,9% số doanh nghiệp dự kiến tăng đơn hàng xuất khẩu mới; 46% số doanh nghiệp dự kiến ổn định và 17,1% số doanh nghiệp dự kiến giảm.

Để hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong các quý tiếp theo, cộng đồng doanh nghiệp kiến nghị một số nội dung:

Thứ nhất, tạo cơ hội để các doanh nghiệp được giao lưu, tìm hiểu nhằm mục đích tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu cũng như khách hàng mới.

Thứ hai, hỗ trợ tuyên truyền, nâng cao vai trò của các ngành nghề trong xã hội, từ đó nâng cao tay nghề và trình độ của người lao động, giảm tình trạng thiếu lao động có tay nghề  và lao động tay nghề cao.

Thứ ba, có các biện pháp kích cầu tiêu dùng hiệu quả nhằm hỗ trợ tiêu thụ và sản xuất hàng hóa.

Thứ tư, có các chính sách nhằm ổn định giá cả và nguồn cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp.

 Xu hướng sản xuất kinh doanh ngành xây dựng

Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng quý I/2024 khó khăn hơn quý IV/2023 với 16,3% doanh nghiệp nhận định hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn; 41,5% doanh nghiệp nhận định giữ ổn định và 42,2% doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn[5]. Dự báo quý II/2024 so với quý I/2024, các doanh nghiệp xây dựng nhận định hoạt động sản xuất kinh doanh tốt lên với 32,2% doanh nghiệp dự báo thuận lợi hơn; 40,7% nhận định giữ ổn định và 27,1% dự báo khó khăn hơn.

Hai yếu tố thường ảnh hưởng nhiều nhất đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng là “giá nguyên vật liệu tăng cao” và “không có hợp đồng xây dựng mới”. Theo khảo sát trong quý I/2024, yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là “không có hợp đồng xây dựng mới” với 52,2% số doanh nghiệp; yếu tố “giá nguyên vật liệu tăng cao” với 46,5% số doanh nghiệp. Dự báo trong quý II/2024, các doanh nghiệp cho rằng yếu tố “giá nguyên vật liệu tăng cao” ảnh hưởng nhiều nhất với 48,7% doanh nghiệp, yếu tố “không có hợp đồng xây dựng mới” với 40,4% doanh nghiệp.

 

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/z5311975852997_26a366106395f95e6f1c58f8f481621d.jpg

 

Để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp ngành xây dựng kiến nghị một số giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, cụ thể như sau:

 

https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2024/04/z5311965221998_98cf2f9c569ca6319ca1dbcf9804f1ac.jpg

 

Thứ nhất, sau Tết Nguyên Đán, hoạt động xây dựng quay trở lại quỹ đạo bình thường, quý II/2024 các doanh nghiệp dự báo có thêm hợp đồng xây dựng mới nên nhu cầu về nguyên vật liệu xây dựng tăng cao. Vì vây, doanh nghiệp mong muốn Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương tiếp tục kiểm soát giá, ổn định nguồn cung nguyên vật liệu, tránh sự độc quyền về nguồn cung dẫn đến tăng giá để hoạt động xây dựng của doanh nghiệp không bị ảnh hưởng.

Thứ hai, thiếu vốn là vấn đề của hầu hết các doanh nghiệp, năng lực tài chính của doanh nghiệp là một trong những yếu tố chính quyết định đến khả năng trúng thầu của đơn vị. Vì vậy, doanh nghiệp mong muốn giảm bớt  điều kiện vay vốn, thủ tục vay vốn để có thể tiếp cận được các gói vay ưu đãi.

Thứ ba, nhanh chóng tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, thành phố nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết hồ sơ, đảm bảo đúng trình tự và thời gian.

Thứ tư, lao động nghỉ việc, chuyển việc do bị nợ lương, chậm lương quá lâu, vì vậy, cần nhanh chóng thanh quyết toán nợ đọng, được giải ngân vốn, tạm ứng vốn đúng kỳ hạn để thanh toán nợ lương cho người lao động.

[1] Số doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động bình quân một tháng trong quý I các năm 2019-2023 lần lượt là: 14,5 nghìn doanh nghiệp; 14,8 nghìn doanh nghiệp; 14,7 nghìn doanh nghiệp; 20,1 nghìn doanh nghiệp; 19 nghìn doanh nghiệp.

[2] Chỉ số tương ứng của quý IV/2023: Có 31,7% số doanh nghiệp đánh giá tốt hơn so với quý III/2023; 37,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 30,4% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn.

[3] Chỉ số tương ứng của quý IV/2023: Có 32,7% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất của doanh nghiệp quý IV/2023 tăng so với quý III/2023; 36,8% số doanh nghiệp cho rằng ổn định và 30,5% số doanh nghiệp đánh giá khối lượng sản xuất giảm.

[4] Chỉ số tương ứng của quý IV/2023: Có 29,2% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng quý IV/2023 cao hơn quý III/2023; 39,7% số doanh nghiệp có số đơn đặt hàng ổn định và 31,1% số doanh nghiệp có đơn đặt hàng giảm.

[5] Chỉ số tương ứng của quý IV/2023 là: 27,4% nhận định hoạt động sản xuất kinh doanh thuận lợi hơn; 39,4% nhận định vẫn ổn định và 33,2% doanh nghiệp nhận định khó khăn hơn.

Nguồn: Tổng cục Thống kê

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/