Tình hình kinh tế xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2023
Sáu tháng đầu năm 2023, kinh tế của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực so với cùng kỳ năm trước; tuyến đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết và Phan Thiết - Vĩnh Hảo được đưa vào hoạt động, cùng với việc Bình Thuận tổ chức đăng cai Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh” là cơ hội để tỉnh quảng bá du lịch, thu hút các nhà đầu tư lớn trên các lĩnh vực thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức cũng không ít, đặc biệt còn nhiều yếu tố rủi ro khó lường từ tình hình lạm phát trong nước cũng như thế giới tăng, dẫn đến sức mua của các nước trên thế giới giảm, làm ảnh hưởng đến các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất khẩu của các đơn vị sản xuất trong tỉnh. Với sự tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, cùng với sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đạt một số kết quả tích cực.
I. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2023 dự ước tăng 7,76% so với cùng kỳ năm trước (đứng vị trí thứ 11/63 tỉnh, thành phố) trong đó: khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,69%; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 6,03% (trong đó công nghiệp tăng 5,33%); khu vực dịch vụ tăng 13,64%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,04%.

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản
Trong 6 tháng đầu năm 2023, nhìn chung thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Tình hình dịch bệnh nghiêm trọng trên cây trồng, vật nuôi không xảy ra. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển khá; các doanh nghiệp, trang trại lớn ứng dụng công nghệ cao trong chăn nuôi, góp phần tăng năng suất, nâng cao chất lượng sản phẩm, phòng, chống dịch bệnh. Sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước; tuy nhiên sản xuất tôm giống gặp khó khăn do ảnh hưởng sản lượng xuất khẩu tôm thịt giảm; giá vật tư đầu vào phục vụ cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tuy có giảm nhưng vẫn ở mức cao, nên chi phí sản xuất tăng, tạo áp lực đối với người sản xuất nông nghiệp; việc liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị trong nông nghiệp còn hạn chế.
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm:
- Kết thúc gieo trồng vụ đông xuân năm 2022 - 2023, sơ bộ diện tích đạt 50.641,7 ha, giảm 0,8% so với vụ cùng kỳ năm trước, trong đó:
+ Cây lương thực: sơ bộ diện tích đạt 42.762,6 ha, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng đạt 290.800 tấn, tăng 0,91 % so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cây lúa diện tích đạt 39.408,6 ha, giảm 0,1%; năng suất đạt 66,8 tạ/ha, tương đương so với vụ cùng kỳ; sản lượng đạt 263.400 tấn, giảm 0,1%. Cây bắp diện tích đạt 3.354 ha, tăng 11,5%; năng suất sơ bộ đạt 81,7 tạ/ha; sản lượng đạt 27.400 tấn, tăng 12%, nguyên nhân tăng do chuyển đổi 275 ha lúa không hiệu quả sang trồng bắp (chủ yếu ở huyện Tánh Linh).
+ Nhóm cây chất bột: chủ yếu là cây khoai lang, sơ bộ diện tích đạt 222 ha, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm trước; năng suất sơ bộ đạt 62,6 tạ/ha và sản lượng đạt 1.390 tấn.
+ Nhóm cây có hạt chứa dầu: cây đậu phộng diện tích gieo trồng đạt 1.287,5 ha, giảm 27,6% so với cùng kỳ năm trước. Cây mè diện tích đạt 51 ha, giảm 47,2%, do hiệu quả kinh tế không cao người dân chuyển sang trồng khoai lang.
+ Nhóm cây rau, đậu các loại và hoa: sơ bộ diện tích gieo trồng đạt 5.593,1 ha, giảm 7,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó rau các loại đạt 3.190,7 ha, giảm 6,4%; năng suất đạt 109,5tạ/ha, tăng 0,5%; sản luợng đạt 34.927 tấn, giảm 5,9%.
+ Nhóm cây hàng năm khác: sơ bộ diện tích gieo trồng đạt 672,5 ha, tăng 45,3% so với cùng kỳ năm trước, tăng chủ yếu do chuyển đổi đất lúa không hiệu quả sang.
- Tiến độ sản xuất vụ hè thu năm 2023: Với điều kiện nguồn nước tương đối đầy đủ, ngay từ đầu vụ một số huyện như Đức Linh, Tánh Linh đã triển khai xuống giống sớm tập trung, đồng loạt, phù hợp cho từng khu vực, từng cánh đồng. Đối với các vùng chưa chủ động hoàn toàn nguồn nước tưới, tùy tình hình nguồn nước tại chỗ và diễn biến của thời tiết đã bố trí lịch thời vụ cụ thể cho từng vùng phù hợp với địa phương. Ước tính đến ngày 15/6/2023 toàn tỉnh xuống giống vụ hè thu đạt 57.905,8 ha, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cây lúa lúa diện tích đạt 40.433,6 ha, tăng 12,7%; cây bắp đạt 5.445,2 ha, giảm 9,2%; cây lang diện tích đạt 293,2 ha, tăng 64,6%; cây đậu phụng diện tích đạt 2.210,6 ha, giảm 2%; cây rau các loại diện tích đạt 3.071,6 ha, giảm 0,3%; đậu các loại diện tích đạt 3.191,6 ha, tăng 12,1%.

* Cây lâu năm
Trong 6 tháng đầu năm 2023 chủ yếu tập trung chăm sóc và thu hoạch diện tích cây lâu năm hiện có. Sau khi thị trường Trung Quốc mở cửa thông thương trở lại, từ đầu năm đến nay giá đầu ra và thị trường tiêu thụ sản phẩm các loại cây lâu năm tương đối thuận lợi. Tổng diện tích ước đạt 108.065,8 ha, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây công nghiệp đạt 67.836,1 ha, tăng 1,6%; cây ăn quả 39.593 ha, giảm 5%; các loại cây lâu năm khác 636,7 ha, giảm 26,5%; diện tích, sản lượng một số cây trồng chính như sau:
- Cây thanh long: Tổng diện tích ước đạt 27.469 ha, giảm 10,8% so với cùng kỳ năm trước, giảm ở các huyện: Bắc Bình 1.192 ha; Hàm Thuận Nam 859,1 ha; Hàm Thuận Bắc 840 ha; La Gi 189 ha; Hàm Tân 81 ha; Tánh Linh 71 ha; Phan Thiết 32,2 ha. Do giá bán giảm sâu trong thời gian dài, trong khi chi phí lao động, phân bón ngày càng tăng, sản phẩm thu hoạch có lúc không người thu mua, người trồng thua lỗ, dẫn đến phá bỏ cây thanh long chuyển sang trồng cây khác hoặc bỏ hoang diện tích. Từ khi Trung Quốc mở cửa giá bán thanh long trong 6 tháng đầu năm 2023 khá ổn định, có lúc tăng cao; nhiều vườn thanh long người trồng tập trung chong đèn trở lại. Sản lượng dự ước 6 tháng đầu năm 2023 đạt 328.900 tấn, tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm 15/6/2023 toàn tỉnh có 9.037,1 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap (trong đó: Hàm Thuận Nam 7.258,1 ha, Hàm Thuận Bắc 1.102 ha, Bắc Bình 303,2 ha, Phan Thiết 97 ha, Tuy Phong 106,5, Hàm Tân 91,3 ha, La Gi 79 ha).
- Cây điều: Tổng diện tích ước đạt 18.179,8 ha, giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, giảm ở các huyện: Bắc Bình 105 ha; huyện Đức Linh giảm 102 ha; nguyên nhân giảm chủ yếu do cây điều già cỗi, năng suất thấp nên chuyển sang trồng các loại cây khác; các huyện còn lại diện tích không có nhiều biến động. Sản lượng thu hoạch dự ước đạt 13.250 tấn, giảm 1,3% so với cùng kỳ năm trước.
- Cây cao su: Tổng diện tích ước đạt 45.205,1 ha, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, tăng ở các huyện: Tánh Linh 1.178 ha([1]); Huyện Đức Linh 54,6 ha; giảm ở các huyện: Hàm Tân giảm 80 ha; La Gi giảm 20 ha; các huyện còn lại diện tích không có nhiều biến động. Sản lượng ước đạt 15.000 tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước.
- Cây tiêu: Tổng diện tích ước đạt 1.027,1 ha, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm ở các huyện: Tánh Linh 56 ha; Đức Linh 40 ha; các huyện còn lại diện tích không có nhiều biến động. Nguyên nhân giảm do giá không ổn định, sâu bệnh thường xuyên xuất hiện gây hại nên người dân hạn chế đầu tư. Sản lượng thu hoạch 6 tháng ước đạt 1.400 tấn, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm trước.
- Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.

* Tình hình dịch bệnh
Trong 6 tháng đầu năm 2023 công tác phòng ngừa sâu bệnh được thực hiện chủ động thường xuyên; các đối tượng sâu bệnh gây hại trên cây trồng xuất hiện và gây hại trên diện rộng nhưng tỷ lệ gây hại thấp, không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng, cụ thể:
- Cây lúa: Diện tích nhiễm rầy nâu 333 ha, tăng 216 ha so với cùng kỳ năm trước; bệnh đạo ôn lá 850 ha, giảm 157 ha; sâu đục thân 322 ha, giảm 674 ha; chuột gây hại trên lúa 310 ha, giảm 84 ha.
- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu 1.916 ha, giảm 634 ha so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu là nhiễm nhẹ.
- Các loài sâu bệnh hại trên cây trồng khác xuất hiện và gây hại với mật độ thấp. Ngoài ra, để hỗ trợ phòng trừ sâu bệnh trên cây trồng ở địa phương từ đầu năm đến nay, cơ quan chuyên môn đã triển khai 02 mô hình quản lý chuột gây hại lúa, 02 mô hình quản lý bệnh khảm lá virus trên cây mì; tổ chức 01 lớp tập huấn đầu vụ về biện pháp phòng trừ chuột hại lúa cho bà con nông dân.
* Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất
Nguồn nước thủy lợi, thủy điện đảm bảo cung ứng đủ lượng nước thô cấp cho các nhà máy nước, công trình cấp nước tập trung, phục vụ chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, cấp nước tưới cây lâu năm và phục vụ sản xuất. Kết quả cấp nước sản xuất vụ đông xuân 2022-2023 từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh đạt 54.267 ha, đạt 100,6% kế hoạch vụ. Đến ngày 23/5/2023 lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh được 140 triệu m3, đạt 38,5% thiết kế, thấp hơn 37,7 triệu m3 so với cùng kỳ năm trước; hồ thuỷ điện Đại Ninh được 21,5 triệu m3, đạt 8,5% thiết kế, thấp hơn 77,1 triệu m3 so với cùng kỳ; hồ thuỷ điện Hàm Thuận được 65,4 triệu m3, đạt 12,5% thiết kế, thấp hơn 63,8 triệu m3 so với cùng kỳ. Tính đến ngày 18/5/2023 diện tích tưới lúa, hoa màu vụ hè thu 2023 thuộc hệ thống công trình thủy lợi đạt 21.107 ha, đạt 70,3% kế hoạch vụ.
* Công tác ứng dụng khoa học công nghệ và khuyến nông vào sản xuất
Diện tích sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong nhà màn, nhà lồng trên địa bàn tỉnh là 56,2 ha/366 nhà màn (chủ yếu trồng rau các loại, dưa lưới...); trên 3.000 ha lúa của huyện Tánh Linh sản xuất định hình gieo trồng sử dụng phân bón vi sinh, các mô hình sản xuất lúa theo phương pháp cải tiến SRI được mở rộng trên 260 ha, có 26.062 ha áp dụng tưới tiên tiến, tiết kiệm nước, đạt 20,9% diện tích đất sản xuất nông nghiệp cần tưới theo quy hoạch. Trong thủy sản tiếp tục phát huy sản phẩm lợi thế tôm giống Bình Thuận, đã đầu tư hoàn thành dự án khu sản xuất giống thủy sản tập trung xã Chí Công (giai đoạn 1) với quy mô 90 ha, hiện đang khuyến khích, kêu gọi doanh nghiệp đầu tư sản xuất tôm giống công nghệ cao tại Khu sản xuất giống thủy sản tập trung xã Chí Công; các cơ sở nuôi nuôi tôm thẻ chân trắng đầu tư xây dựng hệ thống xử lý nước cấp và nước thải riêng biệt, áp dụng quy trình vi sinh trong ao nuôi, sử dụng các loại máy theo dõi môi trường nước nuôi, máy cho ăn tự động, có 01 doanh nghiệp nuôi tôm với diện tích 135,34 ha đang áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tiên tiến như ASC, BAP, GlobalGAP. Việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ trong công tác bảo quản sản phẩm trên tàu cá tiếp tục được quan tâm, các mô hình hiệu quả trong bảo quản sản phẩm sau khai thác được nhân rộng (toàn tỉnh hiện có khoảng 600 tàu cá cải hoán hầm bảo quản bằng vật liệu cách nhiệt Polyurethan (PU) để thay thế hầm bảo quản truyền thống; trên 100 tàu trang bị hầm cấp đông; thực hiện 01 mô hình sử dụng công nghệ hầm lạnh bảo quản sản phẩm bằng máy bảo ôn trên tàu hoạt động nghề lưới kéo.
2. Chăn nuôi (thời điểm 15/6/2023)
Tình hình chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục được duy trì và phát triển ổn định; dịch bệnh trên đàn giá súc, gia cầm được kiểm soát tốt; tuy nhiên chăn nuôi vẫn gặp khó khăn do giá bán thịt hơi vẫn ở mức thấp trong khi giá nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi có giảm nhưng vẫn ở mức cao; đàn bò ổn định và có xu hướng tăng nhẹ; chăn nuôi lợn, gia cầm phát triển khá.
- Chăn nuôi trâu, bò: Toàn tỉnh có 8.400 con trâu, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, đàn trâu tập trung nuôi chủ yếu ở các huyện Tánh Linh, Đức Linh, Hàm Thuận Bắc và Hàm Tân; các địa phương còn lại số lượng nuôi ít, gần đây giá thịt hơi giảm, khả năng tăng đàn chậm so với các loại vật nuôi khác một số hộ giảm đàn. Chăn nuôi bò phát triển khá thuận lợi, việc chủ động trồng cỏ làm thức ăn đang được nhiều hộ dân ở các địa phương trong tỉnh áp dụng, đem lại hiệu quả kinh tế ổn định, toàn tỉnh có 179.200 con, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước.
- Chăn nuôi lợn: Toàn tỉnh có 373.130 con lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh nghiệp 163.500 con, chiếm 43,8%; trang trại CP 108.000 con, chiếm 28,9%; nông hộ chăn nuôi nhỏ lẻ 161.630 con, chiếm 27,2%. Đàn lợn trên địa bàn tỉnh có khuynh hướng giảm dần ở nông hộ, tăng dần ở doanh nghiệp và trang trại chăn nuôi công nghệ cao. Những năm gần đây các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi công nghệ cao các tỉnh lân cận như: Tp Hồ Chí Minh, Bình Phước, Đồng Nai di dời đến Bình Thuận ngày càng nhiều, tính từ tháng 10 năm 2022 đến tháng 6 năm 2023 trên địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc đã có thêm chi nhánh của Công ty LinkFram với quy mô 30.000 con; công ty TNHH Việt Hoàng T&T với quy mô 19.145 con, trang trại Thuận Hòa với quy mô 2.500 con, đây là nguyên nhân làm cho tổng đàn lợn của tỉnh tăng.
- Chăn nuôi gia cầm: Trong 6 tháng đầu năm 2023 chăn nuôi gia cầm phát triển khá tốt, dịch bệnh được kiểm soát, giá cả và tình hình tiêu thụ ổn định, nhiều cơ sở chăn nuôi mở rộng quy mô đàn. Toàn tỉnh có 6.498,6 ngàn con, tăng 21,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 5.208 ngàn con, tăng 26,1%; đàn vịt 1.112,5 ngàn con, tăng 7,3%; đàn ngan 40 ngàn con, giảm 3,3%; đàn ngỗng 2,1 ngàn con, bằng so với cùng kỳ; đàn chim cút 132,5 ngàn con, tăng 6%; đàn bồ câu 10,8 ngàn, tăng 2,9%. Đàn gà tăng mạnh do từ thời điểm tháng 10 năm 2022 đến tháng 6 năm 2023 có thêm trang trại thành lập mới ở huyện Hàm Tân với quy mô 250 ngàn con, 01 Chi nhánh công ty LinkFram ở huyện Hàm Thuận Bắc với quy mô 850 ngàn con, HTX chăn nuôi Minh Phát với quy mô 10 ngàn con ở huyện Hàm Thuận Nam.

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật
Trong 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn toàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm như: Cúm gia cầm; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò; bệnh lở mồm long móng ở gia súc; tai xanh trên heo. Một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ nhỏ không lây lan thành dịch.
- Công tác tiêm phòng vắc xin: Trong tháng đã tổ chức tiêm phòng 1.538,6 ngàn liều (trong đó trâu, bò 7 ngàn liều; lợn 6,6 ngàn liều và gia cầm 1.525 ngàn liều). Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đã tiêm phòng 11.081,9 ngàn liều (trong đó trâu, bò 294,1 ngàn liều; lợn 239,3 ngàn liều và gia cầm 10.548,5 ngàn liều).
- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 166,9 ngàn con lợn; 203 con trâu bò; 371 ngàn con gia cầm; 368,7 tấn thịt các loại; 2,2 triệu quả trứng gia cầm; 28,7 tấn thịt sơ chế. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đã kiểm dịch 840,2 ngàn con lợn; 3,1 ngàn con trâu bò; 2.544,4 ngàn con gia cầm; 1.956,4 tấn thịt các loại; 15,2 triệu quả trứng gia cầm; 170,5 tấn thịt sơ chế.
- Kiểm soát giết mổ: Trong tháng kiểm soát giết mổ 235 con trâu bò; 4 ngàn con lợn; 1,1 ngàn con gia cầm; 98 con dê. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 kiểm soát 1,4 ngàn con trâu bò; 22,8 ngàn con lợn; 5,8 ngàn con gia cầm; 696 con dê.
3. Lâm nghiệp
- Công tác trồng rừng: Trong tháng các đơn vị trồng rừng đã tiến hành trồng rừng sản xuất đạt 780 ha; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 diện tích rừng trồng mới đạt 780 ha. Đã thực hiện giao khoán bảo vệ rừng chuyển tiếp 132.594,56 ha. Các đơn vị chủ rừng tiếp tục tập trung gieo ươm, chăm sóc cây giống, trồng cây phân tán theo kế hoạch; đến nay gieo ươm được 1,4 triệu cây giống các loại.
- Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng: Các đơn vị chức năng tích cực triển khai công tác phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô năm 2023; tập trung theo dõi và thông báo kịp thời cấp dự báo cháy rừng trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố. Thực hiện hoàn thành và nghiệm thu đưa vào sử dụng các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô năm 2023, đảm bảo an toàn cho công tác phòng chống cháy rừng; xây dựng và triển khai kế hoạch phòng chống chữa cháy rừng các cấp. Xác định khu vực trọng điểm về cháy rừng, bố trí lực lượng, phương tiện chữa cháy rừng, tổ chức tập huấn, huấn luyện sử dụng máy móc thiết bị chữa cháy rừng và diễn tập chữa cháy rừng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh đã xảy ra 14 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng với diện tích 16,5 ha, các trường hợp cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Ngành chức năng tập trung phối hợp với các đơn vị chủ rừng và các địa phương tăng cường triển khai hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét các vùng trọng điểm phá rừng. Chú trọng theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh, kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm Luật Lâm nghiệp góp phần ổn định tình hình. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 (đến ngày 15/6/2023) đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 108 vụ vi phạm, trong đó có 11 vụ lấn chiếm đất rừng với diện tích 4,5 ha. Ra quyết định khởi tố hình sự 04 vụ, xử phạt vi phạm hành chính 66 vụ, tịch thu 50,5 m3 gỗ các loại.
4. Thuỷ sản
- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng trong tháng ước đạt 385 ha, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.771,2 ha, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: diện tích nuôi cá ước đạt 1.423 ha, tăng 1,7%; diện tích nuôi tôm đạt 336 ha, tăng 3%).
- Sản lượng nuôi trồng: Tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 tăng trưởng ổn định; nuôi trồng biển chủ yếu tập trung vào nuôi lồng bè ở huyện Phú Quý, Tuy Phong các loài nuôi gồm cá mú, cá bớp, cá chim, cá bè.....trong tháng sản lượng nuôi trồng ước đạt 1.050 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 5.285 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: cá các loại ước đạt 2.745 tấn, tăng 2,7%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 2.485 tấn, tăng 1,6%).
- Sản lượng khai thác: Tình hình khai thác thủy sản ổn định trong 6 tháng đầu năm 2023, từ giữa tháng 3 đến nay thời tiết và ngư trường thuận lợi, hầu hết tàu thuyền đều tham gia khai thác. Một số nghề như lưới kéo, vây rút chì, lưới rê, mành sản lượng đánh bắt cao. Nhóm tàu hoạt động ở vùng gần bờ (lưới rê nổi ven bờ, lặn hải đặc sản, lồng bẫy) sản lượng khai thác khá; ngư trường khai thác chủ yếu tập trung tại vùng biển ven bờ và vùng lộng trong tỉnh, khu vực phía nam đảo Phú Quý, quần đảo Trường Sa, nhà giàn DK-1, đảo Côn Sơn. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 23.180,6 tấn, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 109.237,9 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước đạt 108.987,6 tấn, tăng 2,1%).
- Sản xuất giống thuỷ sản: Trong 6 tháng đầu năm 2023 hoạt động sản xuất tôm giống gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên. Công tác quản lý chất lượng giống thuỷ sản, nhất là giống tôm bố mẹ luôn được tăng cường. Tình hình sản xuất tôm giống trên địa bàn tỉnh không thuận lợi do tiêu thụ khó khăn. Sản lượng tôm giống trong tháng ước đạt 1,9 tỷ post, giảm 5,3% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm ước đạt 11,1 tỷ post, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Ngành thủy sản đã tập trung triển khai quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU); phối hợp với Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo chống khai thác IUU tỉnh thực hiện nghiêm túc quy chế phối hợp giữa tỉnh Bình Thuận với các tỉnh và các lực lượng chức năng (Hải Quân, Cảnh Sát biển, Kiểm ngư) trong công tác quản lý, phòng ngừa, ngăn chặn tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài; tăng cường công tác quản lý đội tàu, lắp đặt thiết bị giám sát hành trình và phát huy hiệu quả hệ thống giám sát hành trình trong giám sát, ngăn chặn tàu cá vượt ranh giới cho phép trên biển, giám sát tàu cá ra vào cảng, bốc dỡ sản phẩm, truy xuất nguồn gốc thủy sản và thực thi pháp luật về khai thác IUU theo đúng quy định. Trong 6 tháng đầu năm 2023, các lực lượng chức năng của tỉnh đã phát hiện 01 vụ/01 tàu/07 lao động vi phạm bị nước ngoài bắt giữ; về vi phạm nguồn lợi thủy sản đã phát hiện và xử phạt 64 trường hợp vi phạm. Tiếp tục thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá (có 1.941 tàu cá có chiều dài tàu từ 15 m trở lên được lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) đạt 99,7%). Công tác đăng kiểm tàu cá được thực hiện thường xuyên, tính đến ngày 12/5/2023 đã thực hiện đăng kiểm 926 chiếc (đạt 23,7%) so với kế hoạch. Công tác tổ chức sản xuất trong khai thác theo hình thức tổ đội sản xuất được quan tâm; tiếp tục duy trì hoạt động 129 tổ đoàn kết/982 thuyền/4.910 lao động và 05 nghiệp đoàn nghề cá. Tiếp tục triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa.
5. Phát triển nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Ngành nông nghiệp tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp. Toàn tỉnh hiện có 160 HTX nông nghiệp (trong đó: có 140 HTX đang hoạt động, 20 HTX dừng hoạt động, đang làm thủ tục giải thể), tăng 11 HTX so với cùng kỳ năm trước. Chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP), trong 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục hỗ trợ các chủ thể tham gia trưng bày sản phẩm OCOP tại các hội chợ; phối hợp tổ chức hội nghị kết nối sản phẩm OCOP vào các hệ thống phân phối tại thành phố Hồ Chí Minh; khảo sát các địa điểm có nhu cầu mở các điểm trưng bày và bán sản phẩm OCOP tại Phan Thiết, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân để có kế hoạch hỗ trợ; hỗ trợ các chủ thể OCOP tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại. Tỉnh đang triển khai thực hiện dự án liên kết sản xuất cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào, chế biến gắn với tiêu thụ lúa, gạo chất lượng cao huyện Đức Linh và Tánh Linh đã được UBND tỉnh phê duyệt. Tính đến ngày 15/6/2023 có 70 sản phẩm OCOP đã được công nhận, xếp loại, trong đó: có 34 sản phẩm xếp loại 3 sao; 34 sản phẩm xếp loại 4 sao và 02 sản phẩm xếp loại 5 sao.
Thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh, đến nay đã thẩm định hồ sơ và công nhận 72 xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 01 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao năm 2022.
II. Công nghiệp; đầu tư; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp
Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp ước tháng 6 và quý II/2023 có khởi sắc hơn trước; ngành sản xuất và phân phối điện tăng do Trung tâm Điều độ hệ thống điện Quốc gia yêu cầu huy động sản xuất điện nhằm đảm bảo an ninh năng lượng trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo tiếp tục gặp nhiều khó khăn trong khâu tìm kiếm đơn hàng, nguồn nguyên liệu sản xuất do kinh tế thế giới phục hồi chậm với chính sách thắt chặt tiền tệ ở nhiều quốc gia, làm suy giảm nhu cần tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn.
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 6/2023 ước tăng 14,56% so với tháng trước và tăng 22,48% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng giảm 13,23%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 7,55%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 35,12%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,29%.
Dự ước quý II/2023 chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 30,57% so với quý trước và tăng 2,39% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,21%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 10,99%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 6,32%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,28%.
Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 3,54% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp khai khoáng tăng 1,35%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 5,92%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 6,73%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,33%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) tháng 6/2023 ước đạt 3.647,97 tỷ đồng, tăng 8,73% so với tháng trước và tăng 0,67% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 20.435,33 tỷ đồng, tăng 3,51% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: công nghiệp khai khoáng đạt 1.488,13 tỷ đồng, tăng 8,23%; công nghiệp chế biến chế tạo đạt 10.256,83 tỷ đồng, tăng 0,58%; sản xuất và phân phối điện đạt 8.569,71 tỷ đồng, tăng 6,46%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 120,67 tỷ đồng, tăng 0,28%.
* Một số sản phẩm chủ yếu
Các sản phẩm sản xuất 6 tháng năm 2023 tăng so với cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại tăng 0,67%; đá khai thác tăng 13,87%; nước mắm tăng 26,52%; nhân hạt điều tăng 20,9%; quần áo may sẵn tăng 17,81%; sơ chế mũ cao su tăng 6,99%; nước máy sản xuất tăng 4,89%; điện sản xuất tăng 10,21%. Sản phẩm giảm gồm: Muối hạt giảm 14,93%; thủy sản đông lạnh giảm 24,54%; thủy sản khô giảm 9,48%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) giảm 5,83%; gạch các loại giảm 5,9%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ giảm 60,01%; thức ăn gia súc giảm 20,49%; giày, dép các loại giảm 52,66%.
* Tình hình xu hướng sản xuất kinh doanh ngành chế biến, chế tạo
Sản xuất kinh doanh quý II/2023 khó khăn hơn so với quý trước: Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến chế tạo cho thấy, có 21,54% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước (quý I/2023 so với quý IV/2022: 35,38%); 35,38% đánh giá khó khăn hơn (quý I/2023 so với quý IV/2022: 33,85%) và 43,08% số doanh nghiệp cho rằng ổn định (quý I/2023 so với quý IV/2022: 30,77%). Có 35,71% doanh nghiệp ngoài quốc doanh đánh giá có chiều hướng tốt lên; 44,64% có chiều hướng giữ nguyên và 19,64% có chiều hướng khó khăn hơn; 37,5% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đánh giá có chiều hướng tốt lên; 37,5% có chiều hướng giữ nguyên và 25,0% có chiều hướng khó khăn hơn; doanh nghiệp nhà nước đánh giá 100% giữ nguyên.
Trong các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp quý II/2023, có 29,03% doanh nghiệp đánh giá do nhu cầu thị trường trong nước thấp; 17,74% doanh nghiệp cho rằng nhu cầu thị trường quốc tế thấp; 11,29% doanh nghiệp cho rằng tính cạnh tranh trong nước cao; 17,74% doanh nghiệp cho rằng thiếu nguyên nhiên vật liệu; 9,68% doanh nghiệp cho rằng do gặp khó khăn về tài chính; 8,06% doanh nghiệp cho rằng lãi xuất vay vốn cao; 3,23% doanh nghiệp cho rằng không tuyển dụng được lao động theo yêu; 1,61% doanh nghiệp cho rằng thiết bị công nghệ lạc hậu và có 1,61% doanh nghiệp đánh giá lý do chính sách pháp luật của nhà nước.
Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý III so với quý II năm 2023: Có 80% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó: có 35,38% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; 44,62% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 20% dự báo khó khăn hơn.
* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)
Trong 6 tháng đầu năm 2023, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các KCN nhìn chung ổn định, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên các doanh nghiệp đang chịu ảnh hưởng chung của tình hình kinh tế thế giới, các nước thắt chặt chi tiêu. Các doanh nghiệp đang rất nỗ lực tìm kiếm đơn hàng để duy trì hoạt động sản xuất; sản phẩm làm ra tiêu thụ chậm, lượng đơn đặt hàng giảm so với các năm trước, các mặc hàng xuất khẩu chủ lực của KCN như da giày, may mặc, gỗ… đều giảm. Doanh thu của các doanh nghiệp KCN 6 tháng đầu năm ước đạt 4.050 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 90 triệu USD và nộp ngân sách ước đạt 65 tỷ đồng.
2. Đầu tư phát triển
Trong 6 tháng đầu năm 2023, nền kinh tế của tỉnh tăng trưởng khá. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thiết yếu tiếp tục được đầu tư xây dựng theo hướng đồng bộ, nhất là hệ thống giao thông vận tải; nhiều dự án hoàn thành đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện bộ mặt đô thị, nông thôn trong tỉnh.
Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước tháng 6/2023 đạt 465,66 tỷ đồng, tăng 33,32% so với tháng trước và tăng 0,55% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.681,74 tỷ đồng, tăng 3,52% so với cùng kỳ năm trước, đạt 34,54% kế hoạch, trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 1.467,50 tỷ đồng, tăng 6,83% với cùng kỳ năm trước, đạt 34,50% kế hoạch; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 192,61 tỷ đồng, giảm 13,79%, đạt 35,34% kế hoạch; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 21,63 tỷ đồng, giảm 21,42%, đạt 30,89% kế hoạch. Trong ngân sách nhà nước cấp tỉnh, vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu đạt 574,51 tỷ đồng, đạt 33,79% kế hoạch năm; vốn nước ngoài (ODA) 23,52 tỷ đồng, đạt 17,49% kế hoạch năm và vốn xổ số kiến thiết đạt 504,08 tỷ đồng, đạt 33,61% kế hoạch năm.

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện trên địa bàn trong quý II/2023 ước đạt 10.215,9 tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước 6 tháng đầu năm 2023, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện trên địa bàn đạt 18.504,3 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn đạt 3.545,6 tỷ đồng, tăng 6,3% so với cùng kỳ, chiếm 19,2% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn ngoài nhà nước đạt 13.774,5 tỷ đồng tăng 11% so với cùng kỳ, chiếm 74,4% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.184,3 tỷ đồng tăng 10,6% so với cùng kỳ, chiếm 6,4% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn.
3. Đăng ký kinh doanh
Trong tháng (từ ngày 15/5 - 14/6/2023), có 71 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 15,48% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 869,91 tỷ đồng, giảm 30,45%; số doanh nghiệp đã giải thể 09 doanh nghiệp, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước; tạm ngừng hoạt động 19 doanh nghiệp, giảm 48,65%; quay trở lại hoạt động 17 doanh nghiệp, tăng 88,89%; đăng ký thay đổi loại hình 116 doanh nghiệp, tăng 12,62%. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 có 334 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 20,29% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 3.929,48 tỷ đồng, giảm 14,74% so với cùng kỳ năm trước; quay trở lại hoạt động 111 doanh nghiệp, giảm 20,71%; tạm ngừng hoạt động 266 doanh nghiệp, tăng 13,68%; đăng ký thay đổi loại hình 668 doanh nghiệp, tăng 28,96%; số doanh nghiệp đã giải thể 51 doanh nghiệp, giảm 10,53%.
Thông báo cảnh báo 18 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký; xử lý “mở khóa” hoạt động trở lại 09 trường hợp sau khi cơ quan thuế chấp thuận và doanh nghiệp có báo cáo giải trình; xử lý giải thể 82 chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh.
4. Đăng ký đầu tư
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh có 01 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng vốn đăng ký 1,5 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 có 14 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng vốn đăng ký 644,13 tỷ đồng; có 13 dự án đăng ký điều chỉnh, với tổng vốn điều chỉnh tăng là 8.803,04 tỷ đồng; có 03 dự án khởi công; 02 dự án đưa vào hoạt động. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.
III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả
Tình hình thương mại của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2023 hoạt động tương đối ổn định. Sức mua của người dân tăng so với cùng kỳ năm trước; hàng hoá dồi dào luôn đáp ứng nhu cầu người dân, giá bán trên thị trường bình ổn, không xảy ra biến động khan hiếm thị trường làm tăng giá đột biến. Trong tháng, thị trường hàng hoá tiếp tục tăng trưởng tốt, các doanh nghiệp triển khai nhiều chương trình bán hàng bình ổn giá trên địa bàn. Các siêu thị Coop mart, Lotte mart thường xuyên có các chương trình giảm giá nhiều mặt hàng nhằm kích cầu tiêu dùng, tăng nhu cầu mua sắm của người dân. Các siêu thị điện máy cũng đưa ra nhiều chương trình giảm giá, mặt hàng điện tử, điện máy; bên cạnh đó còn áp dụng nhiều chương trình hậu mãi, kéo dài thêm thời gian chăm sóc khách hàng; đáp ứng đầy đủ, kịp thời cho nhu cầu người dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng 6/2023 ước đạt 7.873,4 tỷ đồng, tăng 1,69% so với tháng trước và tăng 32,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 4.951,6 tỷ đồng, tăng 1,54% so với tháng trước và tăng 20,67% so với cùng kỳ năm trước. Một số nhóm ngành hàng chủ yếu: nhóm lương thực, thực phẩm đạt 2.419,7 tỷ đồng, tăng 1,56% so với tháng trước và tăng 19,98% so với cùng kỳ năm trước; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 437,1 tỷ đồng, tăng 1,78% so với tháng trước và tăng 26,11% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác đạt 249,2 tỷ đồng, tăng 1,54% so với tháng trước và tăng 23,15% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2023 tình hình bán lẻ hàng hoá trên thị trường tăng trưởng khá, đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân nhất là trong dịp nghỉ lễ kéo dài nhiều ngày; tốc độ tăng trưởng quý II/2023 tăng so với quý I/2023 chủ yếu tập trung các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu của người dân; ước doanh thu bán lẻ hàng hoá quý II/2023 đạt 14.580,6 tỷ đồng, tăng 3,75% so với quý trước và tăng 22,33% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 tình hình bán lẻ hàng hoá trên thị trường tương đối ổn định, hàng hoá đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân nhất là trong dịp lễ, Tết Nguyên đán. Các trung tâm siêu thị, chợ, các cơ sở kinh doanh mở cửa phục vụ sớm, không gián đoạn kinh doanh. Giá xăng, dầu có biến động, tuy nhiên không ảnh hưởng nhiều đến sức mua của người dân; đa số các nhóm, ngành hàng đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Dự ước doanh thu bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ đạt 44.681,5 tỷ đồng tăng 32,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó doanh thu bán lẻ hàng hoá đạt 28.634,1 tỷ đồng, tăng 19,74%; doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 16.047,4 tỷ đồng, tăng 65,52%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2023 tăng 0,56% so với tháng trước, tăng 1,16% so với cùng kỳ năm trước và giảm 0,51% so với tháng 12 năm trước. So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính hầu hết các nhóm hàng đều tăng giá: hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,86%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,55%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,5%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,45%; may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 0,44%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,4%; giao thông tăng 0,4%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,28%; bưu chính viễn thông tăng 0,15%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; giáo dục tăng 0,04%.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,17% so với cùng kỳ năm 2022.
Một số yếu tố làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2023: Chỉ số giá nhóm giáo dục bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 27,97% so với cùng kỳ năm trước do địa phương đã tăng học phí từ tháng 10/2022 trong năm học 2022-2023; Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 5,12% so với cùng kỳ năm trước, do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và nhu cầu đẩy nhanh tiến độ các tuyến đường cao tốc qua địa bàn tỉnh Bình Thuận; Chỉ số giá nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,86% so cùng kỳ năm trước, do dịch Covid-19 được kiểm soát, nhu cầu giải trí và du lịch của người dân tăng; Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 3,02% so cùng kỳ năm trước, chủ yếu do nhu cầu tiêu dùng tăng trong các dịp lễ, tết; Giá điện tăng 2,05% so với cùng kỳ năm trước, nguyên nhân do Công ty Điện lực Bình Thuận thực hiện theo Quyết định số 1062/QĐ-BCT ngày 04/5/2023 của Bộ Công thương quy định về việc tăng giá bán điện.
Các yếu tố làm giảm CPI trong 6 tháng đầu năm 2023: Bình quân 6 tháng đầu năm 2023, giá xăng dầu trong nước giảm 16,39% so với cùng kỳ năm trước, giảm theo biến động của giá thế giới; Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gas bình quân 6 tháng năm 2023 giảm 11,27% so với cùng kỳ năm trước.

* Công tác quản lý thị trường
Lực lượng quản lý thị trường tiếp tục tăng cường công tác quản lý địa bàn, đẩy mạnh công tác kiểm tra, xử lý nghiêm các vi phạm trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt kiểm tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh trên địa bàn qua đó góp phần ổn định thị trường, đảm bảo an toàn thực phẩm, sức khoẻ và quyền lợi của người tiêu dùng không để xảy ra tình trạng buôn lậu, đầu cơ, găm hàng, tăng giá bất hợp lý, hàng giả, hàng kém chất lượng xâm nhập vào thị trường. Trong tháng 5/2023 thực hiện kiểm tra 85 vụ, phát hiện 23 vụ vi phạm (đã xử lý 17 vụ vi phạm, 06 vụ đang xử lý), tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính thu nộp ngân sách nhà nước là 400,75 triệu đồng. Lũy kế 5 tháng năm 2023 (từ ngày 15/12/2022 đến 14/5/2023) đã thực hiện kiểm tra 286 vụ, xử lý 127 vụ vi phạm, tổng số tiền thu nộp ngân sách nhà nước là 2.144,99 triệu đồng (trong đó tiền xử phạt vi phạm hành chính là 1.543,25 triệu đồng; tiền bán hàng hóa tịch thu là 311,95 triệu đồng và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp là 289,79 triệu đồng); tổng trị giá hàng hóa vi phạm là 1.709,33 triệu đồng.
2. Hoạt động du lịch
Trong 6 tháng đầu năm 2023 hoạt động du lịch diễn ra khá nhộn nhịp, dịch vụ lữ hành hoạt động ổn định và tiếp tục tăng cường; các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, niêm yết giá bán, tuân thủ theo quy định của cơ quan quản lý; tuyến du lịch đảo Phú Quý, tuyến cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, Phan Thiết - Vĩnh Hảo đi vào hoạt động thu hút khá nhiều du khách đến tham quan nghỉ dưỡng. Tiếp tục hưởng ứng Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”, tại địa phương diễn ra một số hoạt động văn hoá, thể thao mang tầm quốc gia như giải chạy Stop And Run Marathon Bình Thuận 2023, lễ hội thả diều trên bãi biển thành phố Phan Thiết, cuộc thi Hoa hậu và Nam vương Siêu mẫu Thể hình Thế giới - Miss & Mister Fitness Super Model World 2023, chung kết Giải billiards & snooker vô địch quốc gia năm 2023, giải Đua thuyền truyền thống vô địch quốc gia năm 2023,… đã thu hút rất đông du khách đến tham dự nên doanh thu và lượng khách tăng so với cùng kỳ năm trước.
Lượng khách du lịch trong tháng tháng 6/2023 ước đạt 829,4 ngàn lượt khách, tăng 2,4% so tháng trước và tăng 67,43% so với tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 1.564 ngàn ngày khách, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 76,28% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước trong quý II/2023 lượng khách du lịch đạt 2.376,8 ngàn lượt khách, tăng 14,07% so với quý trước và tăng 1,66 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 4.467,1 ngàn ngày khách, tăng 14,88% so với quý trước và tăng 1,75 lần so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 lượng khách du lịch đến Bình Thuận dự ước đạt 4.460,5 ngàn lượt khách, tăng 86,36% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 8.355,6 ngàn ngày khách, tăng 2 lần so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu dịch vụ lưu trú trong tháng 6/2023 ước đạt 474 tỷ đồng, tăng 2,37% với tháng trước và tăng 78,41 so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.437,2 tỷ đồng, tăng 2,03% so với tháng trước và tăng 63,99% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hổ trợ du lịch ước đạt 14,69 tỷ đồng, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 68,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong quý II/2023 ước doanh thu lưu trú đạt 1.358,1 tỷ đồng, tăng 14,15% so với quý trước và tăng 73,4% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 4.136,9 tỷ đồng, tăng 12,43% so với quý trước và tăng 62,74% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành ước đạt 42,3 tỷ đồng, tăng 13,73% so với quý trước và tăng 66,74% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước doanh thu lưu trú đạt 2.547,8 tỷ đồng, tăng 76,29% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống đạt 7.816,5 tỷ đồng, tăng 62,24% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành ước đạt 79,4 tỷ đồng, tăng 70,68% so với cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 6/2023 ước đạt 2.064,57 tỷ đồng, tăng 2,08% so với tháng trước và tăng 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 ước đạt 5.978,3 tỷ đồng, tăng 11,33% so với quý trước và tăng 2,33% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 11.348,35 tỷ đồng, tăng 2,52 lần so với cùng kỳ năm trước.
* Tình hình khách quốc tế: Lượng khách quốc tế trong tháng 6/2023 ước đạt 22,6 ngàn lượt khách, tăng 2,87% so với tháng trước và tăng 4,2 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ dự ước đạt 91,3 ngàn ngày khách, tăng 3,12% so với tháng trước và tăng 4,3 lần so với cùng kỳ năm trước; lượng khách quốc tế chủ yếu Hàn Quốc, Anh, Mỹ, Trung Quốc. Quý II/2023 lượng khách quốc tế dự ước đạt 65,4 ngàn lượt khách, giảm 4,51% so với quý trước và tăng 4,25 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 263,4 ngàn ngày khách, giảm 5,06% so với quý trước và tăng 4,39 lần so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 133,9 ngàn lượt khách, tăng 5,41 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 540,9 ngàn ngày khách, tăng 5,66 lần so với cùng kỳ năm trước.
3. Xuất nhập khẩu
Sáu tháng đầu năm 2023, tình hình lạm phát và suy thoái kinh tế diễn ra ở nhiều quốc gia, làm suy giảm nhu cầu tiêu dùng của các đối tác thương mại lớn, do đó đã ảnh hưởng đến kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của tỉnh; đơn hàng xuất khẩu giảm làm cho nhiều doanh nghiệp hoạt động cầm chừng. Một số mặt hàng như thủy sản, sản phẩm gỗ, giày dép kim ngạch giảm so với cùng kỳ năm trước.
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng 6/2023 ước đạt 64,67 triệu USD, tăng 13,98% so với tháng trước và giảm 12,82% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: nhóm hàng thủy sản ước đạt 21,06 triệu USD, tăng 5,8% so với tháng trước và giảm 19,63% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 1,29 triệu USD, tăng 7,07% so với tháng trước và tăng 56,40% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hóa khác ước đạt 42,32 triệu USD, tăng 18,78% so với tháng trước và giảm 10,25% so với cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 330,7 triệu USD, giảm 16,92% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: nhóm hàng thủy sản ước đạt 106,5 triệu USD, giảm 21,8%; nhóm hàng nông sản ước đạt 7,2 triệu USD, tăng 25,78%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 217 triệu USD, giảm 15,28%.
+ Xuất khẩu trực tiếp lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 328,21 triệu USD, giảm 17,11% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường Châu Á ước đạt 232,69 triệu USD, giảm 4,77%. Thị trường Châu Âu ước đạt 19,24 triệu USD, giảm 52,83%. Thị trường Châu Mỹ ước đạt 72,4 triệu USD, giảm 32,51%. Một số nước xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch của tỉnh như: Nhật Bản (mặt hàng chủ yếu như tôm, cá, thủy sản, dệt may,...), Đài Loan (bộ quần áo, thủy sản,…), Mỹ (giày dép, tôm thẻ,…), Belizơ (đế giày các loại,…), Trung Quốc (tôm, giày dép, các loại quặng,…), Campuchia (nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi,…).
+ Ủy thác xuất khẩu, lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2,5 triệu USD, tăng 18,79% so với cùng kỳ năm trước.
- Kim ngạch nhập khẩu trong tháng 6/2023 ước đạt 80,04 triệu USD, giảm 3,6% so với tháng trước và giảm 10,69% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 kim ngạch nhập khẩu ước đạt 530,7 triệu USD, giảm 18,12% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu là nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên liệu dệt may, da giày, hàng thủy sản.
4. Hoạt động vận tải
Hoạt động vận tải đường bộ và đường biển 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra khá nhộn nhịp. Thời tiết thuận lợi, hoạt động vận tải đường biển tuyến Phan Thiết - Phú Quý và ngược lại đã thu hút nhiều du khách tham quan du lịch và trãi nghiệm, không để xảy ra tình trạng hành khách ứ động tại các bến tàu. Bên cạnh đó tuyến đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết và Phan Thiết - Vĩnh Hảo đưa vào hoạt động rút ngắn được thời gian di chuyển của người dân và du khách, cùng với các ngày nghỉ lễ kéo dài thu hút nhiều người dân, khách du lịch trong và ngoài tỉnh đi lại; nhu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách phục vụ người dân cũng tăng theo.
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 6/2023 đạt 1.093,22 nghìn hành khách, tăng 0,693% so với tháng trước và tăng 46,85% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 94.050,78 nghìn HK.Km, tăng 0,41% so với tháng trước và tăng 52,17% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2023 lượt khách vận chuyển ước đạt 3.377,10 nghìn HK, tăng 54,10% so với quý cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 297.575,89 nghìn HK.Km, tăng 62,94% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, lượt khách vận chuyển ước đạt 6.314,26 nghìn HK, tăng 40,46% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 618.907,83 nghìn HK.Km, tăng 66,65% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 6/2023 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.073,47 nghìn hành khách, tăng 0,81% so với tháng trước và tăng 47,62% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 vận chuyển hành khách ước đạt 3.312,26 nghìn HK, tăng 54,63% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng năm 2023 đạt 6.200,70 nghìn hk.km, tăng 40,33% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 19,75 nghìn hành khách, giảm 5,68% so với tháng trước và tăng 14,31% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 vận chuyển hành khách ước đạt 64,84 nghìn HK, tăng 30,99% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng năm 2023 đạt 113,56 nghìn hành khách, tăng 47,56% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 92.207,11 nghìn hk.km, tăng 0,50% so với tháng trước và tăng 53,32% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 luân chuyển hành khách ước đạt 291.487,05 nghìn HK.Km, tăng 63,74% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đạt 608.379,34 nghìn hk.km, tăng 67,00% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1.843,67 nghìn hk.km, giảm 3,91% so với tháng trước và tăng 10,85% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 luân chuyển hành khách ước đạt 6.088,84 nghìn HK.Km, tăng 32,24% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đạt 10.528,49 nghìn hk.km, tăng 49%.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 6/2023 đạt 576,27 nghìn tấn, tăng 1,63% so với tháng trước và tăng 35,18% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 40.990,92 nghìn tấn.Km, tăng 1,43% so với tháng trước và tăng 34,85% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2023 khối lượng vận chuyển ước đạt 1.721,58 nghìn tấn, tăng 15,11% so với quý cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 122.471,94 nghìn tấn.Km, tăng 13,95% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 khối lượng vận chuyển ước đạt 3.423,00 nghìn tấn, tăng 14,04% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 250.678,36 nghìn tấn.Km, tăng 16,14% so với cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 6/2023 vận chuyển hàng hóa đường bộ đạt 574,62 nghìn tấn, giảm 1,65% so với tháng trước và tăng 35,29% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 vận chuyển hàng hoá ước đạt 1.716,74 nghìn tấn, tăng 15,17% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng năm 2023 đạt 3.414,00 nghìn tấn, tăng 13,98% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 1,65 nghìn tấn, giảm 3,29% so với tháng trước, tăng 4,11% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 vận chuyển hàng hoá ước đạt 4,84 nghìn tấn, giảm 3,20% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng năm 2023 đạt 9,00 nghìn tấn, tăng 41,45%. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 40.804,68 nghìn tấn.km, tăng 1,45% so với tháng trước và tăng 35,01% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2023 luân chuyển hàng hoá ước đạt 121.929,43 nghìn tấn.Km, tăng 14,03% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 đạt 249.694,98 nghìn tấn.km, tăng 16,06%. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 186,24 nghìn tấn.km, giảm 3,23% so với tháng trước và tăng 7,08% so cùng kỳ năm trước; quý II/2023 luân chuyển hàng hoá ước đạt 542,51 nghìn tấn.Km, giảm 0,86% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng năm 2023 đạt 983,38 nghìn tấn.km, tăng 41,21%.
- Doanh thu hoạt động giao thông vận tải, kho bãi tháng 6/2023 ước đạt 243,63 tỷ đồng, tăng 1,82% so với tháng trước và tăng 46,47% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2023 ước đạt 726,09 tỷ đồng, tăng 39,02% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.424,11 tỷ đồng, tăng 37,08% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 625,96 tỷ đồng, tăng 49,34% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 663,72 tỷ đồng, tăng 17,78%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 130,84 tỷ đồng, tăng 2,43 lần; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 3,58 tỷ đồng, tăng 47,85%.
- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua cảng quốc tế Vĩnh Tân tháng 6/2023 ước đạt 125 ngàn tấn, trong đó: xuất cảng 75 ngàn tấn (muối xá, tro bay, quặng ilmenite, xỉ than, cát…); nhập cảng 50 ngàn tấn (muối xá, xi măng, cao lanh, bột đá,…). Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 683,13 ngàn tấn, tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: xuất cảng 492,63 ngàn tấn (giảm 3,76%) và nhập cảng 190,50 ngàn tấn (tăng 91%).

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu, chi ngân sách
Ước thu ngân sách tháng 6/2023 đạt 550 tỷ đồng, giảm 53,26% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước 5.154,85 tỷ đồng, đạt 51,52% dự toán năm và giảm 21,78% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nội địa 4.671,34 tỷ đồng, đạt 54,28% dự toán năm, giảm 19,38%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác 4.401,54 tỷ đồng, đạt 59,44% dự toán năm, giảm 10,41%; thu tiền nhà, đất 269,81 tỷ đồng, đạt 22,47% dự toán năm, giảm 69,38% (trong đó thu tiền sử dụng đất 199,87 tỷ đồng, đạt 19,99% dự toán năm, giảm 72,17% so với cùng kỳ năm trước); thu thuế xuất nhập khẩu 483,51 tỷ đồng, đạt 34,54% dự toán toán năm và giảm 39,27% so với cùng kỳ năm trước.
Có 10/16 khoản thu ngân sách nhà nước đạt cao hơn hoặc bằng 50% so với kế hoạch, bao gồm: thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đạt 81,37%); thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương (đạt 77,89%); thu từ quỹ đất công ích, hoa lợi công sản khác (đạt 75,32%); thu từ hoạt động xổ số kiến thiết (đạt 66,58%); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (đạt 66,45%); thuế thu nhập cá nhân (đạt 64,92%); thu khác ngân sách (đạt 63,71%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (đạt 61,07%); thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (đạt 54,41%) và thu phí và lệ phí (đạt 52,73%). Có 06/16 khoản thu ngân sách nhà nước đạt dưới 50% so với kế hoạch, bao gồm: lệ phí trước bạ (đạt 42,19%); thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước Trung ương (đạt 40,64%); thu tiền thuê đất, mặt nước (đạt 33,66%); thuế bảo vệ môi trường (đạt 31,44%); thu tiền sử dụng đất (đạt 19,99%) và thu cổ tức, lợi nhuận được chia và lợi nhuận còn lại (đạt 1,20%).

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu tháng 6/2023 ước đạt 225 tỷ đồng, luỹ kế 6 tháng năm 2023 ước đạt 1.873,53 tỷ đồng, đạt 55,93% dự toán năm, giảm 28,48% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Phan Thiết 633,94 tỷ đồng (đạt 42,55% dự toán, giảm 39,44%); La Gi 122,10 tỷ đồng (đạt 54,27% dự toán, giảm 42,11%); Tuy Phong 145,11 tỷ đồng (đạt 53,74% dự toán, giảm 16,49%); Bắc Bình 256,61 tỷ đồng (đạt 86,99% dự toán, tăng 3,0%); Hàm Thuận Bắc 213,13 tỷ đồng (đạt 69,88% dự toán, giảm 24,09%); Hàm Thuận Nam 162,69 tỷ đồng (đạt 65,08% dự toán, giảm 14,01%); Tánh Linh 60,94 tỷ đồng (đạt 62,83% dự toán, giảm 27,42%); Đức Linh 110,83 tỷ đồng (đạt 96,37% dự toán, giảm 4,59%); Hàm Tân 153,85 tỷ đồng (đạt 54,95% dự toán, giảm 33,98%) và Phú Quý thu 14,35 tỷ đồng (đạt 62,39% dự toán, giảm 60,0%).
Tổng chi trong tháng ước thực hiện 1.157,48 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 6.401,80 tỷ đồng; chi ngân sách nhà nước ước đạt 4.642,30 tỷ đồng, trong đó: chi đầu tư phát triển 1.424,08 tỷ đồng; chi thường xuyên 3.218,09 tỷ đồng. Chi chuyển giao ngân sách 1.758,94 tỷ đồng.
2. Hoạt động tín dụng
Đến ngày 31/5/2023, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 81.909,6 tỷ đồng, tăng 2,55% so với đầu năm và giảm 0,17% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: dư nợ cho vay bằng VND đạt 80.617,2 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 49.685,6 tỷ đồng, chiếm 60,7% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm 1,4% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm 1,77% tổng dư nợ, lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 16,24% tổng dư nợ, lãi suất từ 9-12%/năm chiếm 49,82% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm 30,77% tổng dư nợ. Ước đến ngày 30/6/2023, tổng dư nợ đạt 82.266 tỷ đồng, tăng 3% so với cuối năm 2022.
Lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 4,3-5%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 5,5-8,8%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 6-9,1%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 8,5-12%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9,4-14,5%/năm.
Vốn huy động đến ngày 31/5/2023 đạt 54.401,2 tỷ đồng, tăng 3,14% so với đầu năm và tăng 14,29% so với cùng kỳ năm trước. Ước đến ngày 30/6/2023, nguồn vốn huy động đạt 54.852 tỷ đồng, tăng 4% so với đầu năm. Đến ngày 31/5/2023, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 2.147,4 tỷ đồng, chiếm 2,62% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 0,43% so với đầu năm.
Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 44.098,3 tỷ đồng, chiếm 53,83% tổng dư nợ; dư nợ cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt 281,2 tỷ đồng, chiếm 0,34% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 647,3 tỷ đồng, chiếm 0,79% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 16.856,8 tỷ đồng, chiếm 20,58% tổng dư nợ.
Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ (nội bảng) 73,51 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 17,66 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 55,5 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 0,73 tỷ đồng). Nợ xấu (nội bảng) là 0 đồng, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 14,37 tỷ đồng/21 tàu, nợ ngoại bảng là 837,2 tỷ đồng/85 tàu. Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 4.181 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đạt 164,3 tỷ đồng/438 hộ; dư nợ cho vay đối với cơ sở giáo dục mầm non ngoài công lập bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 là 4,58 tỷ đồng, cho vay học sinh, sinh viên có hoàn cảnh gia đình khó khăn để mua máy tính, thiết bị phục vụ học trực tuyến là 15,5 tỷ đồng theo Nghị quyết số 11/NQ-CP.
Đến ngày 31/5/2023, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 75 tỷ đồng/327 khách hàng; lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ từ ngày 23/01/2020 đến ngày 30/4/2023 là 2.903 tỷ đồng/14.910 khách hàng; miễn, giảm, hạ lãi suất cho khách hàng với tổng số tiền 161,69 tỷ đồng, trong đó: Miễn, giảm lãi là 5,86 tỷ đồng; hạ lãi suất cho vay với số tiền lãi đã hạ 155,83 tỷ đồng; cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra với doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 30/4/2023 là 76.079 tỷ đồng/102.934 khách hàng.
Thực hiện Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 16/8/2022 về việc triển khai chương trình hỗ trợ lãi suất 2% từ nguồn ngân sách nhà nước 40.000 tỷ theo Nghị định số 31/2022/NĐ-CP và Thông tư số 03/2022/TT-NHNN. Kết quả thực hiện đến ngày 31/5/2023, doanh số cho vay hỗ trợ lãi suất 246.483 triệu đồng, số khách hàng được hỗ trợ lãi suất 14 khách hàng, số tiền đã hỗ trợ lãi suất cho khách hàng 713,6 triệu đồng.
Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ luỹ kế đến ngày 31/5/2023 đạt 194 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 65,6 triệu USD. Đến ngày 31/5/2023, trên địa bàn có 202 máy ATM, tăng 6 máy so với đầu năm và 1.671 máy POS, tăng 12 máy so với đầu năm. Các máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đến nay tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn trên 85%.
V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động Văn hóa - Thể dục thể thao
1.1. Hoạt động văn hóa
Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng trong năm gắn với Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”; công tác phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi vi phạm về vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và pháo; bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan trong dịp Tết, công tác phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn giao thông, vệ sinh an toàn thực phẩm, Luật Phòng, chống tác hại của rượu bia, nâng cao trách nhiệm và chấn chỉnh tác phong, giờ giấc làm việc…
Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp: Biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị với 58 suất, diễn phục vụ Lễ hội ChaPui (huyện Hàm Tân); Tết đầu lúa (huyện Bắc Bình); Lễ Giỗ tổ Hùng Vương; Ngày Du lịch thành phố Hồ Chí Minh lần thứ 19 tại thành phố Hồ Chị Minh; tổ chức biểu diễn chương trình Mừng Đảng - Mừng Xuân Quý Mão năm 2023 và biểu diễn chương trình nghệ thuật âm nhạc đường phố phục vụ Nhân dân, du khách trong đêm giao thừa tết Nguyên đán Quý Mão năm 2023 và Năm Du lịch quốc gia; chương trình Lễ khánh thành Khu di tích Căn cứ Tỉnh ủy Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ; Lễ Khai mạc Năm Du lịch quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”;…
Văn hóa, văn nghệ quần chúng: Biểu diễn văn nghệ tuyên truyền với 52 buổi, 544 buổi chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân, đồng bào miền núi, thiếu nhi các huyện với kịch bản tuyên truyền “Cạm bẫy đồng tiền”; tổ chức chương trình nghệ thuật với chủ đề “Bình Thuận sắc màu”, chương trình Countdown “Chào năm mới 2023”, chương trình Tết Dương lịch “Chào xuân 2023”… thu hút 217.600 lượt người xem. Đang chuẩn bị tổ chức Tuần lễ Văn hóa đường phố “Bình Thuận - Hội tụ xanh”.
Hoạt động thư viện: Cấp 40 thẻ, 128.964 lượt bạn đọc (truy cập website 123.112 lượt, qua youtube 3.300 lượt, khai thác sách trực tuyến 846 lượt, truy cập Fanpage 1.203 lượt, phục vụ xe lưu động 500 lượt); luân chuyển 2.300 lượt sách, tài liệu. Lũy kế 6 tháng năm 2023, cấp mới 1.456 thẻ (thiếu nhi 1.260 thẻ), 875.673 lượt bạn đọc (truy cập website 24.859 lượt, tại thư viện 2.822 lượt, qua youtube 15.770 lượt, khai thác sách trực tuyến 2.492 lượt, truy cập Fanpage 10.138 lượt, phục vụ xe lưu động: 19.592 lượt); luân chuyển 92.320 lượt sách, tài liệu (thư viện 5.003 lượt, xe lưu động l 85.800 lượt, qua website 1.517 lượt). Sưu tầm 617 tin, bài thông tin tư liệu Bình Thuận; trưng bày giới thiệu 81 bản sách mới trên website, 963 tài liệu tuyên truyền; xử lý kỹ thuật 2.058 bản; số hóa 47.217 trang/394 tài liệu, bài trích báo, tạp chí; phát hành 12 tập thông tin chuyên đề; đóng 193 tập báo, tạp chí; bổ sung 1.151 bản sách từ ngân sách.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Trong tháng đã đón 46.977 lượt khách đến tham quan, trong đó có 405 lượt khách quốc tế. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, đã đón 134.566 lượt khách đến tham quan, trong đó có 1.915 lượt khách quốc tế; phục vụ 140 lễ viếng Bác. Đặc biệt, phục vụ chu đáo đoàn lãnh đạo do đồng chí Vương Đình Huệ - Ủy viên Bộ Chính trị - Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam dẫn đầu và Đoàn lãnh đạo do đồng chí Võ Thị Ánh Xuân, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; đoàn đại biểu, lãnh đạo Tỉnh ủy, HĐND, UBND, UBMTTQVN và các sở, ban, ngành thành phố Phan Thiết đến dâng hương viếng Bác nhân dịp mừng Xuân Quý Mão; sưu tầm, trao đổi, tiếp nhận 39 hiện vật. Thực hiện xây dựng hồ sơ khoa học đề nghị công nhận bảo vật quốc gia đối với 2 hiện vật văn hoá Chăm: Kosa linga (chất liệu vàng) và tượng Avalokitesvara (chất liệu đá). Tổ chức trưng bày, triển lãm ảnh chuyên đề: Di tích - Lễ hội văn hóa tiêu biểu ở Bình Thuận và Phan Thiết xưa. Tổ chức thành công Lễ khánh thành Khu di tích Căn cứ Tỉnh uỷ Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ.
1.2. Hoạt động thể thao
Thể thao quần chúng: Được tổ chức sôi nổi đều khắp ở các địa phương, nhiều loại hình thể thao được tổ chức thường xuyên đáp ứng nhu cầu hưởng thụ, tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong 6 tháng đầu năm 2023, đã tổ chức lễ hội Mô tô Việt Nam - Bình Thuận 2023 (khoảng 2.500 chiếc Mô tô) xác lập kỷ lục Guinness về đoàn mô tô diễu hành đông nhất, dài nhất Việt Nam; giải Billiards & Snooker vô địch quốc gia (vòng 1) với sự tham gia của 1.577 vận động viên đến từ các tỉnh, thành trên cả nước; tổ chức trình diễn bay treo 30 quả khinh khí cầu và 07 chiếc dù lượn tại bãi biển Đồi Dương; Giải Stop and Run Marathon - BTV Bình Thuận 2023 với sự tham gia tranh tài của gần 2.000 vận động viên trong và ngoài nước; Giải Bóng chuyền hơi nữ vô địch tỉnh năm 2023 - Cúp SHB Bình Thuận; Giải đua Xe đạp nữ quốc tế Bình Dương lần XIII năm 2023 - Cúp Biwase; Giải thi đấu Thể hình nam - nữ bãi biển 2023; Hội khỏe Phù đổng tỉnh Bình Thuận lần thứ XV năm 2023; tổ chức “Ngày chạy Olympic - vì sức khỏe toàn dân” - Giải Việt dã vô địch tỉnh Bình Thuận năm 2023; Giải Bán Marthon Tuy Phong lần 1 - Năm 2023; Giải bán Marathon vòng quanh đảo Phú Quý; Giải đua Xe đạp thành phố Phan Thiết mở rộng hưởng ứng Năm du lịch quốc gia 2023; Giải đua Xe đạp vòng quanh núi Tà Cú huyện Hàm Thuận Nam mở rộng lần thứ XIV năm 2023 Cúp Việt Úc Group Aloha; Giải ba môn phối hợp (bơi, chạy, trượt đồi cát) Cụm miền Đông Nam Bộ năm 2023.
Thể thao thành tích cao: Trong tháng đã cử đội tuyển Karate, Judo, Bơi lặn, Điền kinh tham gia các giải thể thao khu vực, quốc gia, đạt 15 huy chương (04 huy chương vàng, 04 huy chương bạc, 07 huy chương đồng). Trong 6 tháng đầu năm, đã cử các đội tuyển tham gia 23 giải thể thao, kết quả đạt 17 huy chương vàng, 19 huy chương bạc, 28 huy chương đồng. Đặc biệt, cử 14 vận động viên tập trung đội tuyển và đội tuyển trẻ quốc gia (01 Jujitsu, 05 Judo, 04 Canoeing, 02 Taekwondo, 01 Điền kinh, 01 Karate), trong đó có 05 vận động viên tham gia thi đấu SEA Games 32, đạt 3 huy chương (01 huy chương vàng môn Judo, 01 huy chương bạc môn Đua thuyền truyền thống, 01 huy chương đồng môn Taekwondo).
2. Giáo dục và đào tạo
Hiện nay, toàn tỉnh có 288/536 trường công lập đạt chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 53,73%, trong đó: bậc Mầm non có 55 trường (38,73%), cấp Tiểu học có 134 trường (56,30%), cấp trung học cơ sở có 85 trường (65,38%), cấp trung học phổ thông có 14 trường (53,85%). Sáu tháng đầu năm 2023, có thêm 08 trường đạt chuẩn quốc gia gồm 02 trường Mầm non, 01 trường Tiểu học và 05 trường trung học cơ sở; tuy nhiên, có 01 trường mẫu giáo xã Ngũ Phụng huyện Phú Quý không còn đủ chuẩn để tiếp tục công nhận lại trường đạt chuẩn quốc gia.
Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 công lập năm học 2023-2024 diễn ra từ ngày 5-7/6/2023, trên địa bàn toàn tỉnh bố trí 31 hội đồng thi đặt tại các Trường trung học phổ thông và một số Trường trung học cơ sở trong tỉnh. Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 các trường trung học phổ thông công lập không chuyên và chuyên năm học 2023-2024 có 16.223 thí sinh đăng ký dự thi. Hiện nay tỉnh đang tổ chức chấm thi, dự kiến công bố kết quả vào ngày 22/6/2023.
Công tác chuẩn bị, tổ chức Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023: Tính đến ngày 13/5/2023 các trường đã hoàn thành công việc tiếp nhận và hướng dẫn học sinh đăng ký dự thi. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm nay, toàn tỉnh tổ chức một Hội đồng thi và 27 điểm thi đặt tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi đến thời điểm hiện nay là 12.909 thí sinh. Gồm: 12.095 thí sinh đang học lớp 12 năm học 2022-2023; 415 thí sinh đang học lớp 12 hệ giáo dục thường xuyên năm học 2022-2023 và 419 thí sinh tự do. Dự kiến bố trí 562 phòng thi, công bố kết quả thi vào 8h ngày 18/7/2023, hoàn thành xét công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông chậm nhất ngày 20/7/2023.
3. Y tế
Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng khám chữa bệnh. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc thu dung, phân tuyến điều trị, tăng cường năng lực chẩn đoán, điều trị, hạn chế thấp nhất các trường hợp nặng, tử vong do bệnh sốt xuất huyết, tay chân miệng,… Đảm bảo đầy đủ cơ số thuốc, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị cho công tác phòng, chống dịch và công tác cấp cứu, khám bệnh, chữa bệnh.
Trong tháng 6/2023, toàn tỉnh có 124 cas mắc sốt xuất huyết Dengue; giảm 3,7 lần so với cùng kỳ năm trước; không có cas tử vong. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 có 2.009 cas mắc; 56 cas nặng, không có cas tử vong.
Bệnh tay chân miệng có 29 cas mắc (tăng 19 cas so với tháng trước), không có trường hợp tử vong; luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 có 54 cas mắc, không có trường hợp tử vong.
Trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc tả, bạch hầu, cúm A (H5N1), viêm màng não do não mô cầu, viêm não vi rút; ghi nhận 01 trường hợp mắc bệnh và tử vong do bệnh dại. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh có 01 bệnh nhân mắc và tử vong do bệnh dại. Chưa ghi nhận ca mắc bệnh đậu mùa khỉ..
Phòng chống Sốt rét: không có ca mắc sốt rét, sốt rét ác tính và không có trường hợp tử vong. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023, không ghi nhận trường hợp mắc, tử vong do sốt rét
Công tác phòng chống Phong: ghi nhận 01 trường hợp mắc bệnh phong mới, lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 phát hiện 02 bệnh nhân phong mới, 366 bệnh nhân đang quản lý tại tỉnh.
Công tác phòng chống Lao: ghi nhận 582 lượt khám; 107 bệnh nhân lao thu dung điều trị; 80 ca bệnh nhân lao AFB (+) phát hiện mới. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh ghi nhận 548 bệnh nhân lao thu dung điều trị; 378 bệnh nhân lao AFB(+) phát hiện mới.
Công tác phòng chống HIV/AIDS: 05 ca nhiễm HIV mới ghi nhận; 01 ca chuyển AIDS mới; không có ca tử vong do AIDS mới. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 toàn tỉnh ghi nhận: 1.765 ca nhiễm HIV; 1.110 ca nhiễm HIV chuyển AIDS; 547 ca tử vong do AIDS.
Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm: Trong tháng không có xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm; lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm có 29 người mắc do nấm và bồ câu có chứa hóa chất bảo vệ thực vật carbofuran tại xã Mương Mán, huyện Hàm Thuận Nam, không có trường hợp tử vong. Đảm bảo tốt công tác an toàn vệ sinh thực phẩm trong dịp nghỉ lễ.
Tăng cường công tác phòng, chống cúm gia cầm: hoạt động giám sát, biện pháp phòng, chống dịch bệnh, ca bệnh được quản lý chặt chẻ, cập nhật kịp thời và xử lý triệt để các ổ dịch. Tình hình dịch cúm A (H5N1), bạch hầu, Ebola, Zika, dịch tả.... không ghi nhận trường hợp mắc.
* Công tác tiêm phòng dịch bệnh Covid-19
Tiếp tục tập trung, triển khai thực hiện quyết liệt có hiệu quả về Chương trình phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn tỉnh. Triển khai nghiêm túc, hiệu quả chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, nhất là đồng bộ 3 trụ cột chống dịch là: Xét nghiệm, cách ly, điều trị; thực hiện nghiêm 2K (khẩu trang, khử khuẩn) + vắc xin + thuốc + điều trị + công nghệ + ý thức người dân + các biện pháp khác.
Số ca mắc Covid-19 (từ ngày 27/4/2021 đến ngày 09/6/2023) toàn tỉnh ghi nhận 54.313 ca mắc Covid-19 (Phan Thiết 9.184, Tánh Linh 9.021, Hàm Thuận Bắc 6.553, Hàm Thuận Nam 6.281, Tuy Phong 5.160, La Gi 4.428, Hàm Tân 4.399, Đức Linh 3.714, Phú Quý 2.807, Bắc Bình 2.766), trong đó: có 50 ca đang điều trị; 53.808 ca đã điều trị khỏi và xuất viện; 484 ca tử vong (29 ca tử vong ngoài tỉnh).
Tính đến ngày 09/6/2023, tiêm cho đối tượng từ 18 tuổi trở lên hoàn thành 100% liều cơ bản, 544.394/762.532 tiêm mũi 3 (mũi nhắc lại lần 1), đạt tỷ lệ 71,4%, 124.519/125.200 tiêm mũi 4 (mũi nhắc lại lần 2), đạt tỷ lệ 99,5% (125.200 là số đối tượng đăng ký tiêm mũi nhắc lần 2 do các địa phương báo cáo về điều chỉnh).
Hiện nay công tác tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi trên địa bàn tỉnh đã hoàn thành 100% liều cơ bản, 57.692/121.499 tiêm nhắc lần 1, đạt tỷ lệ 47,5%. Tiêm cho trẻ từ 5 đến 11 tuổi 113.029/128.460 mũi 1, đạt tỷ lệ 88%; 86.332/128.460 tiêm mũi 2, đạt tỷ lệ 67,2%.
4. Khoa học và công nghệ; Bưu chính, viễn thông
Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng, hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tiếp tục triển khai thực hiện Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ, thiết bị đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm lợi thế của tỉnh và hỗ trợ nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hóa của tổ chức, doanh nghiệp.
Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng phủ đến 98% dân số; băng rộng di động, băng rộng cố định (cáp quang) đã được phủ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt. Các doanh nghiệp viễn thông đảm bảo thông tin liên lạc và wifi miễn phí tại các địa điểm diễn ra các hoạt động của Năm du lịch Quốc gia 2023 “Bình Thuận - Hội tụ xanh”; lắp thiết bị kích sóng Repeater tại Khu di tích Căn cứ Tỉnh uỷ Bình Thuận trong kháng chiến chống Mỹ tại xã Đông Giang, huyện Hàm Thuận Bắc; mạng di động 5G đã được Viettel phát thử nghiệm thêm 02 trạm tại Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh và Toà nhà Viettel. Chất lượng dịch vụ viễn thông, truyền hình cáp ngày càng nâng cao với các gói cước thấp nhất trước đây từ 40Mbps nay nâng lên 60Mbps, gói cước cao đã nâng lên 80Mbps, đường truyền cung cấp cho các doanh nghiệp có tốc độ đạt trên 1.000Mbps, đảm bảo hoạt động phát triển thương mại, quảng bá dịch vụ của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Tổng số cơ sở giao dịch BCVT: 1.275 điểm, bán kính 2 phục vụ bình quân đạt 1,40 km/cơ sở; mật độ điện thoại các loại 149,5 thuê bao/100 dân; tổng số thuê bao Internet các loại: 1.397.450 thuê bao; mật độ 112 thuê bao/100 dân.
Hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin được tiếp tục quan tâm đầu tư, nâng cấp mở rộng. Các sở, ngành, địa phương quan tâm ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước, thúc đẩy cải cách hành chính, minh bạch hóa thông tin.
5. Lao động - xã hội
Trong tháng 6/2023 đã giải quyết việc làm cho 2.297 lao động, luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 giải quyết việc làm 11.559 lao động, đạt 57,8% so kế hoạch, tăng 0,92% so với cùng kỳ năm trước. Cho vay vốn giải quyết việc làm 1.737 lao động, tăng 24,07% so với kế hoạch. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề trong tháng cho 214 người, luỹ kế 6 tháng năm 2023 là 2.525 người, đạt 25,25% so với kế hoạch và bằng 38,5% so với cùng kỳ năm trước. Đã vận động Quỹ Bảo trợ trẻ em 1.499,72 triệu đồng, đạt 74,98% so kế hoạch năm; Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 1,435 tỷ đồng, đạt 23,9% kế hoạch và đạt 85,7% so với cùng kỳ năm trước.
Công tác chính sách người có công: Trong tháng tiếp tục tổ chức điều dưỡng tập trung cho 665 người có công tại các tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long; ban hành quyết định cấp kinh phí điều dưỡng tại nhà năm 2023. Triển khai hỗ trợ nhà ở năm 2023 cho Người có công từ nguồn quỹ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa (hỗ trợ 10 nhà ở cho các huyện Tánh Linh, La Gi, Bắc Bình và Hàm Thuận Bắc). Trong 6 tháng đầu năm 2023, đã triển khai thực hiện tốt các chính sách ưu đãi người có công với cách mạng; chế độ thăm, tặng quà dịp Tết nguyên đán Quý Mão năm 2023 cho các đối tượng kịp thời, đầy đủ.
Công tác quản lý người nghiện: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 2.242 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (trong đó quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 388/1 nữ; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 597 người; 1.069 người đang được các ban, ngành, đoàn thể nơi cư trú quản lý giáo dục; quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 188 người). Có 111/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma tuý, chiếm 89,52% số xã, phường, thị trấn.
6. Chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số
Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình đời sống và sản xuất, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh cơ bản ổn định. Nhiều hoạt động hỗ trợ đồng bào trước, trong và sau Tết Nguyên đán, Tết Ramưwan của đồng bào chăm theo đạo Hồi giáo Bàni được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện theo phong tục truyền thống. Hiện nay các cấp ủy, chính quyền địa phương đang tập trung chỉ đạo, hướng dẫn đồng bào phòng, chống các dịch bệnh trên trây trồng, vật nuôi…; tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc tâp trung sản xuất vụ hè thu với các cây trồng chủ lực như: bắp lai, lúa nước, cao su, cây điều…
Thực hiện cung ứng đầy đủ, kịp thời vật tư phục vụ nhu cầu sản xuất lúa nước tại địa bàn các xã; tổ chức thu mua bắp lai thương phẩm, mủ cao su gắn với thu hồi nợ đầu tư ứng trước; hoàn thành việc đăng ký nhu cầu nhận đầu tư ứng trước năm 2023 (1.353 hộ đăng ký đầu tư bắp lai, lúa nước với diện tích 2.385 ha, trong đó: có 1.043 hộ/2.170 ha bắp lai và 310 lượt hộ/215 ha lúa nước).
7. Hoạt động bảo hiểm
Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch.
Ước tính đến ngày 30/6/2023, toàn tỉnh có 99.339 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 5,52% so với cùng kỳ năm trước; có 92.000 người tham gia BHTN, tăng 7,13%; số người tham gia BHXH tự nguyện 12.075 người, tăng 6,41%; số người tham gia BHYT 1.052.820 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.405 người), tăng 3,18%. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 90,40% dân số.
Người thuộc hộ nghèo đã được cấp thẻ BHYT đạt 99,9%, còn 31 người chưa được cấp thẻ BHYT (Bắc Bình: 16 người, Hàm Thuận Bắc: 13 người, Hàm Tân: 2 người). Người thuộc hộ cận nghèo đã được cấp thẻ BHYT đạt 99,9%, còn 69 người chưa được cấp thẻ BHYT (Bắc Bình: 22 người, Tuy Phong: 16 người, Hàm Tân: 17 người, Hàm Thuận Bắc: 14 người).
Đến ngày 31/5/2023, toàn tỉnh có 242.895/246.249 học sinh, sinh viên (HSSV) tham gia BHYT, đạt tỷ lệ 98,6%, Trong đó: có 208.158 em tham gia tại trường học, 34.737 em tham gia theo nhóm khác (hộ gia đình nghèo, cận nghèo, …). Số HSSV tham gia BHYT tăng 417 em so với tháng trước, còn 3.354 em chưa tham gia, chiếm tỷ lệ 1,4% (trong đó: có 2.186 em Phan Thiết, 653 em La Gi, 268 em Bắc Bình, 140 em Hàm Thuận Bắc, 84 em Hàm Tân, 23 em Tuy Phong), chủ yếu là HSSV tham gia có thời hạn ngắn (3 tháng, 6 tháng) hết hạn thẻ nhưng chưa tham gia lại; người dân tộc thiểu số, người thuộc xã bãi ngang không còn được ngân sách hỗ trợ đóng BHYT. Có 36.983 người/72.406 người thuộc hộ gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình tham gia BHYT, tăng 2.746 người so với tháng trước (trong đó có 31.906 người tham gia BHYT theo nhóm khác).
Xét duyệt, giải quyết cho 26.811 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm 2022, trong đó: Hưởng chế độ BHXH dài hạn: 297 người; hưởng trợ cấp thất nghiệp: 3.761 người; hưởng trợ cấp BHXH một lần: 7.167 người; hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức - phục hồi sức khỏe: 15.586 lượt người. Tổng số người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn xét duyệt, quản lý đến đầu tháng 6/2023 là 17.860 người. Tổng số thu 1.078,5 tỷ đồng, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm trước; tổng số đã chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN 1.174.498 triệu đồng (trong đó: có 811.660 triệu đồng chi trả chế độ BHXH; 63.156 triệu đồng chi BHTN; 299.673 triệu đồng chi BHYT).
8. Tai nạn giao thông (từ ngày 15/5 - 14/6/2023)
Số vụ tai nạn giao thông 16 vụ, so với tháng trước giảm 04 vụ so với tháng trước và giảm 02 vụ so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 đã xảy ra 111 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), giảm 14 vụ so với cùng kỳ năm trước.
Số người bị thương 11 người, tăng 02 người so với tháng trước và giảm 01 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 có 70 người bị thương, giảm 05 người so với cùng kỳ năm trước.
Số người chết 09 người, giảm 06 người so với tháng trước và giảm 03 người so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 có 80 người chết (trong đó đường sắt 01 người) giảm 08 người so với cùng kỳ năm trước.
Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; 09 vụ nghiêm trọng và 07 vụ va chạm. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, 07 vụ rất nghiêm trọng, 54 vụ nghiêm trọng, 02 vụ ít nghiêm trọng và 37 vụ va chạm. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát.
9. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường
- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 11 vụ thiên tai, tăng 03 vụ so với tháng trước và tăng 08 vụ so với cùng kỳ năm trước, do mưa lớn, gây ngập lụt, lũ quét, lốc xoáy xảy ra trên địa bàn tỉnh làm 02 người chết, 02 người bị thương, làm tốc mái 09 căn nhà, ngập 561,90 ha lúa, 57 ha màu (khoai mỳ, dưa hạt) và nhiều cây trồng lâu năm bị ngã đỗ, ước giá trị thiệt hại 2,288 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 21 vụ thiên tai (giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm trước), ước tổng giá trị thiệt ban đầu 66,55 tỷ đồng.
- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 01 vụ cháy, bằng so với tháng trước và tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm trước, không xảy ra nổ; Ước thiệt hại 30 triệu đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 07 vụ cháy (giảm 07 vụ so với cùng kỳ năm trước), ước thiệt hại 393 triệu đồng.
- Vi phạm môi trường: Trong tháng phát hiện 03 vụ, tăng 02 vụ so với tháng trước và giảm 01 vụ so với cùng kỳ năm trước; đã xử phạt 235,0 triệu đồng. Luỹ kế 6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 15 vụ (giảm 04 vụ so với cùng kỳ năm trước), xử phạt 1.574,14 triệu đồng.
TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:
Trang:
/