TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận, năm 2022

Kinh tế - xã hội năm 2022 của tỉnh phát triển tích cực so với năm 2021, nhiều ngành đã khôi phục mạnh mẽ và đạt mức tăng trưởng cao như công nghiệp chế biến, chế tạo; dịch vụ lưu trú, vận tải, bán lẻ hàng hóa; xuất khẩu hàng hóa… Tình hình hoạt động sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp tốt hơn, cho thấy tín hiệu phục hồi tích cực sau đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, khó khăn, thách thức cũng không ít, đặc biệt còn nhiều yếu tố rủi ro khó lường từ diễn biến dịch Covid-19, lạm phát, giá cả nguyên vật liệu đầu vào (xăng dầu, vật liệu xây dựng, phân bón, thuốc trừ sâu...) tăng cao, tình hình căng thẳng giữa Ukraine và Nga,... đã làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

 

I. Tăng trưởng kinh tế

Dự ước tổng sản phẩm nội tỉnh năm 2022 tăng 7,75% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị tăng thêm tăng 8,29%, thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,51%. Giá trị tăng thêm nhóm ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,5%; công nghiệp xây dựng tăng 6,66% (công nghiệp tăng 5,76%; xây dựng tăng 10,96%); dịch vụ tăng 14,88%.

Tốc độ tăng trưởng GRDP qua các năm VT: %)

Cơ cấu kinh tế trong GRDP năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 27,72%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,51%; khu vực dịch vụ chiếm 32,54%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,23% ([1]).

Năng suất lao động xã hội tiếp tục có sự cải thiện, dự ước năm 2022 đạt 144,2 triệu đồng/người, tăng 7,53% so với cùng kỳ năm trước. GRDP bình quân đầu người ước đạt 77,3 triệu đồng/người, tăng 9,22% so với cùng kỳ năm trước. Thu nhập bình quân đầu người ước đạt 51,66 triệu đồng/người, tăng 9,97% so với cùng kỳ năm trước.

II. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2022 thuận lợi về điều kiện thời tiết. Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mùa vụ phù hợp với điều kiện, lợi thế của địa phương. Chuyển dịch cơ cấu đàn vật nuôi theo hướng tăng tỷ trọng các loài nuôi có giá trị kinh tế, dễ tiêu thụ, có thị trường ổn định đầu ra, phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao, phát triển mô hình chăn nuôi tuần hoàn; đẩy mạnh công tác cải tạo giống. Tình hình sâu bệnh trên cây trồng, vật nuôi không diễn biến phức tạp, chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ và ảnh hưởng không đáng kể. Bên cạnh những thuận lợi, tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh gặp không ít khó khăn, ảnh hưởng đến kết quả sản xuất và thu nhập của người người dân; giá các loại vật tư nông nghiệp vẫn ở mức cao trong khi giá đầu ra còn thấp và không ổn định làm giảm thu nhập và khả năng tái tạo vốn sản xuất của người dân. Các hành vi xâm hại tài nguyên rừng, lấn chiếm đất rừng vẫn còn xảy ra. Tình hình ngư trường tương đối thuận lợi, hoạt động khai thác hải sản ổn định, sản lượng khai thác thủy sản tiếp tục được duy trì.

1. Trồng trọt

- Cây hàng năm: Tổng diện tích gieo trồng đạt 197.623 ha, giảm 1,5% so với cùng kỳ năm trước. Diện tích cây lương thực ước đạt 135.129 ha, giảm 2,7% so với cùng kỳ năm trước; năng suất ước đạt 61,2 tạ/ha, tăng 0,6 tạ/ha; sản lượng lương thực ước đạt 826.800 tấn, giảm 1,7% (trong đó diện tích cây lúa ước đạt 120.465 ha, giảm 2,5%; năng suất ước đạt 60,6 tạ/ha, tăng 0,8 tạ/ha; sản lượng ước đạt 729.914 tấn, giảm 1,1%). Đã chuyển đổi 5.198 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác để tăng hiệu quả sử dụng đất (gồm bắp 1.238 ha, rau 1.256 ha, đậu các loại 1.002 ha, đậu phộng 1.234 ha, dưa hấu 164 ha, cây trồng khác 304 ha).

- Cây lâu năm: Do ảnh hưởng của giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, xăng dầu, chi phí dịch vụ trong nông nghiệp tăng, người trồng đã cắt giảm diện tích sản xuất cây lâu năm (chủ yếu cây thanh long) dẫn đến diện tích và sản lượng thanh long đều giảm. Tổng diện tích trồng cây lâu năm sơ bộ đạt 109.154,2 ha, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó diện tích cây công nghiệp lâu năm đạt 67.758,4 ha, tăng 2,7%; cây ăn quả đạt 39.596,3 ha, giảm 9,4%; các loại cây lâu năm còn lại 1.799,6ha, tăng 5,2%. Tính đến thời điểm 15/12/2022, toàn tỉnh có 10.120,9 ha thanh long được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.

2. Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi bò, lợn và gia cầm chuyển dịch theo hướng giảm dần chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi quy mô lớn, áp dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất, kiểm soát dịch bệnh và bảo đảm đầu ra cho sản phẩm. Công tác phòng, chống dịch bệnh trên động vật được triển khai thường xuyên, tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát. Ước đến cuối năm 2022, so với cùng kỳ năm trước đàn trâu có 8,4 ngàn con, giảm 1,7%; đàn bò có 176,1 ngàn con, tăng 1,64%; đàn lợn 348,8 ngàn con (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 8,3%; đàn gia cầm 6.535,1 ngàn con, tăng 34,4%; sản lượng thịt hơi gia súc, gia cầm các loại năm 2022 ước đạt 83.630,7 tấn, tăng 12,94% so với cùng kỳ năm trước.

Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2022 dự ước đạt 83.630,7 tấn, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước. Với số lượng đàn gia súc, gia cầm, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đủ khả năng cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và xuất bán các tỉnh lận cận trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán sắp đến.

3. Lâm nghiệp

Đã chú trọng công tác bảo vệ rừng, ngăn chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp; tăng cường kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh với các tỉnh để kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm; thường xuyên tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy rừng (năm 2022, xảy ra 05 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng với diện tích 4,81 ha, các vụ cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng). Tổ chức thực hiện tốt kế hoạch trồng rừng tập trung, trồng cây phân tán, chăm sóc rừng và giao khoán bảo vệ rừng năm 2022. Ước năm 2022 diện tích trồng rừng mới tập trung đạt 3.700 ha, đạt 137% kế hoạch, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước; trồng cây phân tán đạt 390 ha, tăng 2,42% so với cùng kỳ năm trước; thực hiện giao khoán bảo vệ rừng được 133.401 ha, tăng 13,28% so với cùng kỳ năm trước; thực hiện chăm sóc rừng trồng trên diện tích 12.000 ha, tăng 5,37% so với cùng kỳ năm trước.

4. Thuỷ sản

Sản lượng nuôi trồng năm 2022 ước đạt 11.838,5 tấn, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu là nuôi thủy sản nội địa). Khai thác thủy sản biển tiếp tục đầu tư theo hướng giảm dần tàu thuyền công suất nhỏ khai thác ven bờ, phát triển tàu có công suất lớn đánh bắt xa bờ. Sản lượng hải sản khai thác năm 2022 ước đạt 231.380 tấn, tăng 0,58% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng tôm giống sản xuất và tiêu thụ ước đạt 25,8 tỷ post, tăng 2,79% so với cùng kỳ năm trước. Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản được tăng cường; đặc biệt, thực hiện quyết liệt chỉ đạo của Trung ương về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định; khắc phục tồn tại, hạn chế trong chống khai thác IUU theo ý kiến kết luận của Đoàn Thanh tra Ủy ban Châu Âu. Tiếp tục thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá. Tiếp tục quan tâm công tác tổ chức sản xuất trong khai thác theo hình thức tổ đội sản xuất. Tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa.

5. Xây dựng nông thôn

Tập trung thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, ước đến cuối năm 2022 toàn tỉnh có thêm 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới lên 71/93 xã (chiếm 76,34%), trong đó có 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao; duy trì 02 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn nông thôn mới (Phú Quý, Đức Linh).

II. Công nghiệp - xây dựng; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Hoạt động sản xuất công nghiệp năm 2022 với mức tăng trưởng thấp so với các năm trước đây và có sự chuyển dịch tăng trưởng từ ngành sản xuất và phân phối điện sang ngành công nghiệp chế biến chế tạo. Trong bối cảnh dịch Covid-19 cơ bản đã được kiểm soát trên phạm vi cả nước; các Hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP phát huy hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi để ngành công nghiệp trên địa bàn tỉnh giữ được tăng trưởng và phát triển. Tuy nhiên, với tình hình lạm phát gia tăng; ảnh hưởng xung đột giữa Nga và Ukraine; giá nguyên, nhiên vật liệu đầu vào tăng cao dẫn đến tăng chi phí sản xuất, vận chuyển; nhu cầu tiêu dùng ở nhiều nước đang có xu hướng giảm dần… đã tác động đến hoạt động sản xuất công nghiệp của tỉnh.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) năm 2022 ước đạt 39.189,71 tỷ đồng, tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước; trong đó công nghiệp khai khoáng 3.138,12 tỷ đồng, tăng 32,18%; công nghiệp chế biến chế tạo 20.740,11 tỷ đồng, tăng 16,67%; sản xuất và phân phối điện đạt 15.065,68 tỷ đồng, giảm 2,48%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 245,80 tỷ đồng, tăng 4,82%.

Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) năm 2022 ước tăng 1,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành khai khoáng và công nghiệp chế biến, chế tạo tăng cao (ngành khai khoáng tăng 25,41% do xây dựng tuyến đường cao tốc Bắc - Nam phía đông, đoạn Phan Thiết - Dầu Giây; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,07%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 3,16%; ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,2%.

2. Xây dựng

Năm 2022, ngành xây dựng đã đối mặt với rất nhiều khó khăn từ chi phí nguyên liệu đầu vào tăng cao cho đến thị trường bất động sản gặp vấn đề về huy động vốn; giá hàng hóa thế giới tăng nhanh đối với một số mặt hàng thiết yếu và nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong sản xuất do gián đoạn chuỗi cung ứng và do chi phí vận tải gia tăng. Những tháng cuối năm là giai đoạn nước rút cho các dự án hoàn thành đúng tiến độ, đặc biệt các tuyến đường giao thông trọng điểm, cao tốc Bắc-Nam đoạn qua địa bàn tỉnh.

Giá trị sản xuất xây dựng cả năm 2022 (theo giá hiện hành) ước 17.162 tỷ đồng tăng 20,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước (chiếm tỷ trọng 0,6%) ước đạt 93 tỷ đồng; khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước (chiếm 70,7%) ước đạt 12.141 tỷ đồng, tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chiếm 1,8%) ước đạt 315,5 tỷ đồng, giảm 10% so với cùng kỳ năm trước; loại hình kinh tế khác (chiếm 26,9%) ước đạt 4.612,5 tỷ đồng, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước.

3. Đầu tư phát triển

Việc đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện cao nhất các mục tiêu phát triển KT-XH. Trong năm 2022 huy động vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 44.250 tỷ đồng, tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước (trong đó vốn nhà nước đạt 8.757,1 tỷ đồng, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 19,8% trong tổng số vốn thực hiện; vốn ngoài nhà nước đạt 32.513,1 tỷ đồng tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 73,5% trong tổng số vốn thực hiện; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.979,9 tỷ đồng tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước và chiếm 6,7% trong tổng số vốn thực hiện).

Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công bảo đảm kế hoạch đề ra, dự ước cả năm 2022 giải ngân đạt trên 95% kế hoạch. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Thường xuyên đôn đốc, rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất để thúc đẩy các dự án, các công trình trọng điểm.

4. Đăng ký kinh doanh

Tổng số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới từ đầu năm đến ngày 14/12/2022 có 1.504 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 645 đơn vị trực thuộc), tăng 53,63% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 9.142,21 tỷ đồng, tăng 0,26%; có 241 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 55 đơn vị trực thuộc), tăng 6,17%; tạm ngừng hoạt động 381 doanh nghiệp (trong đó có 76 đơn vị trực thuộc), tăng 37,55%; số doanh nghiệp đăng ký thay đổi 1.519 doanh nghiệp (trong đó có 352 đơn vị trực thuộc), tăng 23,3%; chuyển đổi loại hình 88 doanh nghiệp, tăng 29,41% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp đã giải thể 330 doanh nghiệp (trong đó có 207 đơn vị trực thuộc), tăng 50%.

5. Đăng ký đầu tư

Trong năm 2022 trên địa bàn tỉnh có 18 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư (giảm 15 dự án so với cùng kỳ năm trước), với tổng diện tích đất 146 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 716 tỷ đồng.

Lũy kế từ trước đến nay có 1.607 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng diện tích đất 50.105 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 332.726 tỷ đồng. Thường xuyên rà soát tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án ngoài ngân sách để thúc đẩy tiến độ triển khai. Trong năm 2022 có thêm 3 dự án khởi công, thu hồi 9 dự án chậm triển khai và không có dự án nào đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh.

III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả

Hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước tiếp tục được quan tâm, chuyển đổi phương thức thực hiện công tác xúc tiến, mang lại hiệu quả nhất định. Tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” trong tình hình mới. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ; bình ổn tình hình thị trường, không để xảy ra tình trạng găm hàng, tăng giá bất hợp lý.

- Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ ước đạt 74.400 tỷ đồng, tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 52.000 tỷ đồng, tăng 15,04%; doanh thu dịch vụ ước đạt 8.120 tỷ đồng, tăng 51,57%; doanh thu lưu trú, ăn uống, dịch vụ lữ hành 14.280 tỷ đồng, tăng 60,21%.

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12 năm 2022 giảm 0,08% so với tháng trước, tăng 4,18% so với cùng kỳ năm trước; CPI bình quân 12 tháng năm 2022 tăng 3,61% so với cùng kỳ năm trước.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 10 nhóm hàng tăng giá: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,67%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,39%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,38%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,29%; may mặc, mũ nón và giầy dép tăng 0,28%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,26%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,19%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%; bưu chính viễn thông tăng 0,01%; giáo dục tăng 0,01%. Có 01 nhóm hàng giảm giá: Giao thông giảm 3,09%.

2. Hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch trong năm phục hồi nhanh (chủ yếu quý III) nhưng không đồng đều giữa khách trong nước và khách quốc tế, lượng khách đến tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước (chủ yếu khách nội địa). Hoạt động lữ hành tiếp tục tăng trưởng, các tour du lịch phục vụ du khách ngày càng tăng; các hoạt động hỗ trợ, dịch vụ vui chơi giải trí, dịch vụ khác hoạt động ổn định, tăng so với năm trước; các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống luôn mở cửa phục vụ cho người dân địa phương và du khách, đảm bảo chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm, niêm yết giá bán, tuân thủ theo quy định của cơ quan quản lý.

Dự ước trong năm 2022, đón 5.720,2 ngàn lượt khách, gấp 3,2 lần so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách du lịch quốc tế 87,7 ngàn lượt khách, gấp 3,7 lần và khách nội địa 5.632,5 ngàn lượt khách, gấp 3,2 lần); doanh thu từ hoạt động du lịch 13.680 tỷ đồng, gấp 3,3 lần so với cùng kỳ năm trước.

3. Xuất, nhập khẩu

Hoạt động xuất khẩu trên địa bàn tỉnh năm 2022 tăng trưởng khá tốt; tuy nhiên sự tăng trưởng giữa các nhóm hàng không đồng đều, trong khi nhóm hàng thủy sản và hàng hóa khác tăng trưởng khá cao do nhu cầu tiêu thụ của thị trường nước ngoài thì nhóm hàng nông sản lại giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước năm 2022 đạt 775,9 triệu USD, tăng 23,09% so với cùng kỳ năm trước; trong đó nhóm hàng thủy sản đạt 245,88 triệu USD, tăng 42,45%; nhóm hàng nông sản đạt 14,77 triệu USD, giảm 19,47%; nhóm hàng hóa khác đạt 515,25 triệu USD, tăng 17,26%.

Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 1.341,93 triệu USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là nguyên liệu để sản xuất như hàng thủy sản, nguyên liệu dệt may, da giày, gỗ và sản phẩm gỗ, giấy các loại, thức ăn gia súc,....

4. Hoạt động vận tải

Hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ và đường biển có chuyển biến tốt, hoạt động thường xuyên và tăng vào những tháng cuối năm do nhu cầu du lịch, nghĩ dưỡng dịp cuối năm. Hoạt động vận chuyển hành khách các tuyến liên tỉnh và nội tỉnh được đảm bảo. Hoạt động vận tải hàng hóa ổn định đáp ứng được nhu cầu vận chuyển những tháng cuối năm được thông suốt. Riêng mặt hàng xăng dầu trong năm có nhiều biến động đã tạo áp lực không nhỏ cho ngành vận tải.

Khối lượng luân chuyển hành khách năm 2022 ước đạt 955,43 triệu lượt người.km, gấp 2,69 lần so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hàng hóa ước 506,86 triệu tấn.km, gấp 1,96 lần so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu hoạt động vận tải dự ước cả năm 2022, đạt 2.275,5 tỷ đồng, tăng 2,19 lần so với cùng kỳ năm trước; trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.000,09 tỷ đồng, tăng 3,05 lần; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.147,51 tỷ đồng, tăng 69,28%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 123,33 tỷ đồng, tăng 4,11 lần; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 4,87 tỷ đồng.

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Công tác thu ngân sách nhà nước trong năm triển khai tích cực; triển khai thực hiện tốt Luật Quản lý thuế, chống thất thu, chống chuyển giá, chống gian lận thương mại và các khoản nợ đọng thuế; quản lý, khai thác tốt các nguồn thu ngân sách trên địa bàn tỉnh. Tổng thu ngân sách nhà nước năm 2022 ước đạt 10.984,92 tỷ đồng, đạt 129,42% dự toán năm và giảm 6,76% so với cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa 10.002,01 tỷ đồng, đạt 139,15% dự toán năm, giảm 1,25%; thu thuế xuất nhập khẩu 982,91 tỷ đồng, đạt 75,61% dự toán năm và giảm 40,55% so với cùng kỳ năm trước. Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu cả năm 2022: có 10/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách đạt và vượt dự toán năm; 8/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách tăng so với cùng kỳ năm trước.

Chi ngân sách đáp ứng kịp thời các nhu cầu chi lương, hoạt động thường xuyên của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, chi đầu tư phát triển; chi cho các nhiệm vụ trọng tâm; chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Tổng chi ước năm 2022 đạt 15.740,1 tỷ đồng; chi ngân sách nhà nước ước đạt 11.600,46 tỷ đồng, trong đó đầu tư phát triển 5.376,21 tỷ đồng, chi thường xuyên 6.223,46 tỷ đồng.

2. Hoạt động tín dụng

Các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn để mở rộng cho vay đi đôi với đảm bảo an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương, địa phương. Ước đến ngày 31/12/2022, vốn huy động đạt 53.837 tỷ đồng, tăng 10% so với đầu năm; dư nợ đạt 79.388 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm, vốn tín dụng tập trung vào lĩnh vực SXKD và các lĩnh vực ưu tiên gắn với việc triển khai thực hiện các biện pháp hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19; công tác thanh toán không dùng tiền mặt đối với dịch vụ công, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; công tác quản lý vàng, ngoại hối tiếp tục được thực hiện tốt, diễn biến thị trường theo hướng ổn định; việc cơ cấu lại tổ chức tín dụng và xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai.

V. Lĩnh vực Văn h - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa - thể dục thể thao

Thông tin, tuyên truyển, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị tiếp tục được tăng cường, nhất là đẩy mạnh tuyên truyền về công tác phòng, chống dịch Covid-19 và tuyên truyền, cổ động chào mừng các ngày lễ, tết, ngày kỷ niệm quê hương, đất nước, tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong nhân dân, ổn định dư luận, góp phần phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh. Tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 30 năm tái lập tỉnh Bình Thuận. Hoạt động thể dục thể thao được tổ chức phù hợp với công tác phòng chống dịch Covid-19. Cử 04 vận động viên tham gia thi đấu tại SEA Games 31 đạt 2 huy chương vàng và 1 huy chương bạc([2]); vượt qua vòng chung kết Giải bóng đá hạng nhì năm 2022, đội tuyển bóng đá nam Bình Thuận được thăng hạng nhất Quốc gia. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được mở rộng và đi vào chiều sâu với nhiều đối tượng, nhiều địa phương thực hiện theo định hướng xã hội hóa với những hình thức đa dạng, phong phú.

2. Giáo dục và Đào tạo

Tiếp tục duy trì tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi (với 10/10 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn, 124/124 đơn vị cấp xã đạt chuẩn). Duy trì phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3 (có 122 xã, phường, thị trấn đạt Mức độ 3, đạt 98,38%; 01 xã, phường, thị trấn đạt Mức độ 2, đạt 0,81%; 01 xã, phường, thị trấn đạt Mức độ 1, đạt 0,81%). Phổ cập giáo dục trung học cơ sở đạt mức độ 1.

Tính đến thời điểm tháng 12, toàn tỉnh có 275/536 trường chuẩn quốc gia, đạt tỷ lệ 51,3%; trong đó Mầm non có 52/142 trường (36,62%), Tiểu học có 129/238 trường (54,20%), THCS có 80/130 trường (61,54%), THPT có 14/26 trường (53,85%). Như vậy, theo chỉ tiêu được giao trong năm 2022, đến thời điểm báo cáo, có 03/09 trường đã có quyết định là trường đạt chuẩn quốc gia.

3. Y tế

Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới, đẩy nhanh tiêm vắc xin phòng Covid-19 mũi bổ sung, mũi nhắc cho đối tượng 18 tuổi trở lên, hoàn thành hai mũi vắc xin phòng Covid-19 cơ bản cho trẻ từ 12-17 tuổi, triển khai tiêm vắc xin phòng Covid-19 cho trẻ từ 5 đến 11 tuổi; tiếp tục triển khai tiêm mũi nhắc lại cho trẻ từ 12-17 tuổi([3]). Triển khai thực hiện đồng bộ các hoạt động giám sát, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, các ca bệnh được quản lý chặt chẽ, cập nhật kịp thời và xử lý triệt để các ổ dịch. Dịch sốt xuất huyết vẫn còn diễn biến phức tạp trên địa bàn tỉnh([4]). Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, các đơn vị điều trị đã chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân. Chất lượng khám chữa bệnh được duy trì và từng bước được nâng lên ở các tuyến. Triển khai thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, từ đầu năm đến nay không xảy ra ngộ độc thực phẩm.

4. Khoa học - Công nghệ; Bưu chính, viễn thông

Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng. Các nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp tỉnh thực hiện theo cơ chế đặt hàng, có cam kết ứng dụng kết quả nghiên cứu ngay từ thời điểm tham gia tuyển chọn. Công tác nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, hàng hoá tiếp tục được triển khai; các hoạt động quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ tiếp tục được quan tâm thực hiện tốt.

Hạ tầng bưu chính, mạng viễn thông tiếp tục được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước, người dân và các tổ chức, doanh nghiệp. Hệ thống truyền dẫn cáp quang, mạng internet băng rộng di động 3G, 4G và cố định đã phủ đến 100% các xã, phường, thị trấn. Mạng lưới phục vụ bưu chính, viễn thông với 1.270 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân là 1,4 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại ước đạt 1.870.250 thuê bao, mật độ 149 thuê bao/100 dân. Tổng số thuê bao Internet các loại 175.000 thuê bao; tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) đạt 70%.

Chương trình chuyển đổi số được quan tâm triển khai, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện “Chương trình thúc đẩy phát triển và sử dụng các nền tảng số quốc gia phục vụ chuyển đổi số, phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số” trên địa bàn tỉnh. Triển khai Quyết định số 06/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Xây dựng trang thông tin điện tử về chuyển đổi số của tỉnh; xây dựng kế hoạch thực hiện hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số.

5. Lao động - xã hội

Công tác đào tạo nghề và giải quyết việc làm có nhiều cố gắng. Dự ước năm 2022 giải quyết việc làm cho khoảng 22.224 lao động, đạt 111,21% so kế hoạch, tăng 38,9% so với cùng kỳ năm trước; cho vay vốn giải quyết việc làm cho 5.341 lao động, gấp 3,8 lần so với kế hoạch. Tuyển mới và đào tạo 17.930 người, tăng 79,30% so với kế hoạch và tăng 2,44 lần so với cùng kỳ năm trước. Vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 9,91 tỷ đồng, tăng 65,2% so với kế hoạch năm và tăng 38,7% so với cùng kỳ năm trước. Quỹ Bảo trợ trẻ em tỉnh vận động 2,035 tỷ đồng tăng 1,75% so kế hoạch năm và giảm 0,78% so với cùng kỳ năm trước.

Chính sách an sinh xã hội được bảo đảm. Toàn tỉnh có 41.085 đối tượng bảo trợ xã hội đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, 918 đối tượng bảo trợ xã hội có hoàn cảnh khó khăn, không nơi nương tựa được đưa vào chăm sóc, nuôi dưỡng tập trung tại các cơ sở bảo trợ xã hội công lập và ngoài công lập. Việc chi trả trợ cấp cho đối tượng bảo trợ xã hội kịp thời, đảm bảo chế độ theo quy định, đã giải quyết cho 1.268 hộ nghèo vay 64.689 triệu đồng; cho 1.947 hộ cận nghèo vay 99.992 triệu đồng, 3.460 hộ mới thoát nghèo vay 167.907 triệu đồng để đầu tư hoạt động sản xuất, kinh doanh. Cấp 22.599 thẻ BHYT cho người thuộc hộ nghèo và 40.120 thẻ BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo để khám, chữa bệnh; thực hiện đảm bảo việc miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập đối với học sinh, sinh viên đang học tại các cơ sở giáo dục trong và ngoài tỉnh thuộc diện hộ nghèo, hộ cận nghèo. Từ nguồn vận động Quỹ “Vì người nghèo” được 13,574 tỷ đồng, đạt 142,9%; hỗ trợ xây dựng mới 20 căn nhà ở và sửa chữa 20 căn nhà ở cho hộ nghèo.

* Thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid-19:

- Chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp gặp khó khăn do đại dịch Covid-19([5]): Đã hỗ trợ cho 7.916 lượt đơn vị, 257.825 lượt đối tượng với kinh phí 350.093 triệu đồng (số liệu được cộng dồn từ năm 2021 đến nay).

- Chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động năm 2022: Thực hiện Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động đã hỗ trợ cho 331 lao động/19 doanh nghiệp/493,5 triệu đồng.

6. Hoạt động bảo hiểm (đến ngày 30/11/2022)

Toàn tỉnh có 97.045 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước; có 88.386 người tham gia BHTN, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước; số người tham gia BHXH tự nguyện 10.216 người, giảm 15% so với cùng kỳ năm trước; số người tham gia BHYT 1.034.540 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.371 người), tăng 4,8% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh ước đạt 93,4% dân số.

Tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH hàng tháng là 17.510 người. Tổng số thu 2.365,565 tỷ đồng, tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 177,041 tỷ đồng, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước.

7. Tai nạn giao thông (tính đến ngày 14/12/2022)

Số vụ tai nạn giao thông năm 2022, đã xảy ra 251 vụ (trong đó có 08 vụ đường sắt), so với cùng kỳ năm trước giảm 07 vụ; số người bị thương 133 người (trong đó đường sắt 01 người) giảm 24 người; số người chết 176 người (trong đó đường sắt 07 người), so với cùng kỳ năm trước tăng 23 người.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong năm 2022, đã xảy ra 41 vụ thiên tai, ước tổng giá trị thiệt hại ban đầu 24.456,6 triệu đồng.

- Cháy nổ: Trong năm 2022, đã xảy ra 33 vụ cháy (giảm 21 vụ so với cùng kỳ năm trước), thiệt hại 3.939 triệu đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong năm 2022, đã xảy ra 33 vụ (tăng 04 vụ so với cùng kỳ năm trước), thiệt hại 5.679,29 triệu đồng.

* Đánh giá chung:

Năm 2022, nền kinh tế của tỉnh đã phục hồi khá mạnh mẽ sau đại dịch Covid-19, nhiều ngành kinh tế đã khôi phục và đạt mức tăng trưởng cao .

Sản xuất nông nghiệp duy trì ổn định; diện tích gieo trồng cây ngắn ngày, số lượng gia súc, gia cầm, sản lượng khai thác, nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi, quản lý bảo vệ rừng, nguồn lợi thủy sản được triển khai tích cực. Xây dựng nông thôn mới tiếp tục tập trung triển khai và công nhận thêm 02 xã đạt chuẩn nông thôn mới, nâng tổng số xã đạt chuẩn nông thôn mới toàn tỉnh lên 71/93 xã (đạt 76,34%), trong đó có 05 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao. Tiếp tục thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình trên tàu cá. Các chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục thực hiện tốt.

Giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển (tăng 9,36% so với cùng kỳ năm trước), nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 16,67%.

Hoạt động du lịch sôi động trở lại, phục hồi khá nhanh sau dịch Covid-19; lượt khách đến gấp 3,22 lần và doanh thu từ hoạt động du lịch gấp 3,29 lần so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động thương mại, dịch vụ, vận tải, xuất nhập khẩu trở lại bình thường, thông suốt. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 25,1% so với cùng kỳ năm trước. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng 23,09% so với cùng kỳ năm trước.

Thu ngân sách nhà nước có nhiều cố gắng; chi ngân sách bảo đảm cho yêu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách an sinh xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng so với cùng kỳ năm trước.

Thu hút đầu tư phát triển có sự phục hồi, huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng 18,33% so với cùng kỳ năm trước. Tiến độ giải ngân vốn đầu tư công bảo đảm kế hoạch đề ra (dự ước cả năm 2022 giải ngân đạt trên 95% kế hoạch). Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Thường xuyên đôn đốc, rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất để thúc đẩy các dự án, các công trình trọng điểm.

Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới, đẩy nhanh tiêm vắc xin phòng chống Covid-19 trên địa bàn tỉnh an toàn, đúng đối tượng. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, thực hiện tốt. Chất lượng giáo dục, đào tạo được duy trì. Tổ chức thành công các hoạt động kỷ niệm 30 năm tái lập tỉnh Bình Thuận. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị, các văn hóa, văn nghệ, thể thao linh hoạt chuyển hướng hình thức đáp ứng hưởng thụ văn hóa và giải trí của nhân dân. Hoạt động thể dục thể thao diễn ra khá sôi động, thể thao thành tích cao đạt được kết quả khá, đội bóng đá nam Bình Thuận lên thi đấu hạng nhất Quốc gia vào năm 2023. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chăm lo cho các đối tượng chính sách, người nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, tình hình kinh tế - xã hội ở một số lĩnh vực vẫn còn một số khó khăn, tồn tại, hạn chế:

Việc triển khai kế hoạch phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội sau dịch Covid-19 còn chậm. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn do giá cả vật tư, xăng, dầu tăng cao. Sản xuất công nghiệp nhìn chung còn khó khăn.

Hoạt động du lịch tuy có phục hồi, nhưng lượt khách đến giảm 10,72% so với năm 2019 trước khi chưa xảy ra dịch Covid-19 và doanh thu giảm 10,01%. Khối lượng luân chuyển hành khách giảm 26,29%, khối lượng luân chuyển hàng hóa giảm 12,47% so với năm 2019 trước khi chưa xảy ra dịch Covid-19.

Việc liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp còn nhiều khó khăn, bất cập, nhất là thanh long; tình hình sâu bệnh hại trên cây trồng, dịch bệnh vật nuôi tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh gây hại. Vẫn còn trường hợp tàu cá, ngư dân ở một vài địa phương đánh bắt hải sản vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ, làm ảnh hưởng đến nỗ lực chung chống khai thác IUU của tỉnh.

Tiến độ triển khai đầu tư một số công trình trọng điểm của tỉnh còn chậm. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác chuẩn bị hồ sơ của các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư còn chậm.

Chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân có mặt còn hạn chế; cơ sở vật chất một số cơ sở y tế xuống cấp, có nguy cơ mất an toàn. Các bệnh truyền nhiễm gây dịch, nhất là sốt xuất huyết, tay chân miệng tỷ lệ mắc bệnh cao. Dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp, tiến độ tiêm vắc xin phòng Covid-19 mũi nhắc lại cho đối tượng trẻ từ 12-17 tuổi và mũi cơ bản cho trẻ từ 5-11 tuổi thấp so với kế hoạch. Đội ngũ bác sỹ và nhân lực chuyên môn có trình độ cao còn thiếu. Đội ngũ giáo viên còn thừa thiếu cục bộ, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ viên chức quản lý, giáo viên chưa đạt chuẩn trình độ theo quy định trong Luật Giáo dục 2019 còn khá cao (Cán bộ quản lý chưa đạt chuẩn là 101/534, chiếm tỷ lệ 19,5%; Giáo viên chưa đạt chuẩn là 2.469/5.976, chiếm tỷ lệ 40,6%)./.

CỤC THỐNG KÊ BÌNH THUẬN



([1]) Tương ứng năm 2021: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 28,95%; công nghiệp và xây dựng chiếm 33,93%; dịch vụ chiếm 30,5% và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,62%.

([2]) (1) Môn Taekwondo: VĐV Nguyễn Thị Lệ Kim đạt HCV nội dung quyền đồng đội nữ sáng tạo; VĐV Nguyễn Thị Kim Hà đạt HCV nội dung đồng đội nữ tiêu chuẩn; (2) Môn Kurash: VĐV Phan Trúc Phi đạt HCB đối kháng nam hạng cân dưới 66kg.

([3]) Có 902.752 người đã tiêm vắc xin mũi 1 (100%); 902.752 người tiêm vắc xin mũi 2 (100%); 522.152/762.532 tiêm vắc xin mũi 3 (68,5%) và 115.468/117.800 tiêm vắc xin mũi 4. Tiêm nhắc lần 1 cho trẻ từ 12 đến 17 tuổi (mũi 3): 57.701 (47,5%). Tiêm cho trẻ từ 05 đến 11 tuổi: 108.617 mũi 1 (85,6%); 75.989 mũi 2 (59,98%).

([4]) Lũy kế năm 2022 (đến ngày 14/12/2022) toàn tỉnh có 11.026 cas mắc sốt xuất huyết, tăng gấp 5,3 lần so với cùng kỳ năm trước, có 06 trường hợp tử vong, số ca mắc cao tại các huyện: Tánh Linh (2.530 ca), Hàm Thuận Nam (1.667 ca), Bắc Bình (1.482 ca).

([5]) Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Nghị quyết số 126/NQ-CP ngày 08/10/2021 sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 68/NQ-CP; Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19; Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg ngày 06/11/2021 2021 sửa đổi, bổ sung Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg; Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg ngày 28/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động.




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/