TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế xã hội tháng 11 năm tỉnh Bình Thuận

Trong tháng, thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, nguồn nước tưới tiêu được đảm bảo, các loại cây trồng được chăm sóc tốt. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19 trong nước cũng như trên thế giới làm thị trường xuất khẩu hàng nông sản gặp nhiều khó khăn. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh nghiêm trọng không xảy ra. Điều kiện thời tiết ngư trường thuận lợi cho khai thác đánh bắt thuỷ sản.

 

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

1. Trồng trọt

* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/11 diện tích xuống giống vụ mùa đạt 88.476,4 ha, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2020; nguồn nước thuỷ lợi đầy đủ phục vụ cho sản xuất, việc sản xuất diễn ra đúng khung thời vụ.

- Cây lương thực: Diện tích xuống giống đạt 49.100,5 ha, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó cây lúa đạt 44.120,1 ha, tăng 3,8%; cây bắp đạt 4.980,4 ha, giảm 11,2%.

- Cây có hạt chứa dầu: Diện tích xuống giống đạt 2.080,9 ha, diện tích chủ yếu là cây đậu phụng đạt 2.032,9 ha, giảm 6,6% so với cùng kỳ năm 2020.

- Cây thực phẩm: Diện tích xuống giống đạt 6.993,3 ha, tăng 19,1% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó rau các loại đạt 3.162,07 ha, tăng 12,1%; đậu các loại đạt 3.831,2 ha, tăng 25,6 %.

- Cây hàng năm khác: Diện tích xuống giống đạt 787,3 ha, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm 2020.

* Cây lâu năm: Trong tháng các địa phương tập trung trồng mới và chăm sóc các loại cây lâu năm. Do ảnh hưởng của dịch Covid-19  thị trường xuất khẩu hàng nông sản gặp nhiều khó khăn, giá đầu ra một số mặt hàng nông sản thấp. Cụ thể một số loại cây chủ lực như sau:

- Thanh long: Hiện đã kết thúc vụ thu hoạch chính, người dân chuẩn bị chong đèn để cho ra hoa trái vụ, tuy nhiên diện tích chong đèn so với các năm trước khá thấp, do năm nay ảnh hưởng tình hình dịch bệnh, việc vận chuyển hàng hoá khó khăn, giá bán thanh long giảm liên tục, trong khi phân bón, thuốc trừ sâu tăng mạnh, người trồng ngại đầu tư. Tính đến ngày 15/11 toàn tỉnh có 11.811,3 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.

- Cao su: Hiện đang vào thời điểm thu hoạch, nhu cầu nhập khẩu cao su của các nước đặc biệt là thị trường Trung Quốc giảm, sản lượng cao su trong tháng chủ yếu tiêu thụ trong nước, dự tính trong thời gian đến diện tích trồng mới trên địa bàn tỉnh tăng chậm.

- Cây điều: Một số địa phương như huyện Đức Linh, huyện Tánh Linh, huyện Hàm Tân, đang phát triển thêm diện tích trồng điều ghép; các địa phương phía bắc tỉnh như huyện Tuy Phong, huyện Bắc Bình cây điều phát triển chậm do phần lớn diện tích đất cát kém màu mỡ, năng suất thấp, hiệu quả chưa cao.

- Cây tiêu: Hiện đã kết thúc vụ thu hoạch, so với năm trước giá tiêu đã tăng trở lại, người trồng có lãi nhưng không nhiều, tình hình sâu bệnh trên cây tiêu khá phức tạp, người trồng không phát triển diện tích mới.

Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.

* Tình hình dịch bệnh: Công tác dự báo và ngăn ngừa dịch bệnh trên cây trồng được theo dõi, triển khai thường xuyên.

- Cây lúa: Diện tích nhiễm bệnh đạo ôn lá 1.012 ha, tăng 239 ha; bệnh sâu đục thân 985 ha, tăng 674 ha so với cùng kỳ năm 2020.

- Cây Thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu 5.074 ha, giảm 790 ha; diện tích nhiễm ốc sên 1.724 ha, tăng 644 ha so cùng kỳ năm 2020

- Cây mì: Diện tích nhiễm bệnh khảm lá virus 3.534 ha, tăng 1.261 ha so cùng kỳ năm 2020. Các đối tượng khác gây hại với mật số thấp.

* Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất: Tính đến ngày 09/11/2021 diện tích cấp nước sản xuất vụ mùa 52.741/51.324 ha, đạt 102,8% so với kế hoạch. Trong đó diện tích tưới lúa, hoa màu vụ mùa thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh 31.686/30.701 ha, đạt 103,2%; diện tích tưới cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày 21.055/20.623 ha, đạt 102,1%. Tình hình nguồn nước đến ngày 09/11/2021 lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh được 228,8 triệu m3, đạt 63,1% thiết kế, cao hơn 35,2 triệu m3 so với cùng kỳ năm 2020.

2. Chăn nuôi (tại thời điểm 15/11/2021)

Trong tháng do ảnh hưởng của dịch Covid-19 làm ảnh hưởng đến việc lưu thông vận chuyển hàng hóa, ngành chăn nuôi gặp một số khó khăn nhất định: Giá thức ăn chăn nuôi tăng; trong khi giá thịt lợn hơi, thịt gà hơi giảm. Bệnh dịch tả lợn Châu phi bắt đầu xuất hiện vào cuối tháng 10 đến nay đã được kiểm soát; đàn gia súc, gia cầm vẫn đang tiếp tục duy trì; đàn trâu giảm nhẹ; đàn bò phát triển ổn định; chăn nuôi gia cầm phát triển thuận lợi, tình hình dịch bệnh trên đàn gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt.

- Chăn nuôi trâu, bò: Ước đàn trâu có 8.640 con, giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2020, mặc dù giá thịt hơi trâu khá ổn định nhưng do khả năng sinh trưởng và tăng đàn chậm, thời gian đầu tư đến khi thu hồi vốn lâu hơn các loại vật nuôi khác nên người nuôi không mạnh dạn đầu tư tăng đàn; đàn bò có 173.500 con, tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2020, bệnh nổi cục ở đàn bò đã được khống chế và không ảnh hưởng đến việc tăng đàn.

- Chăn nuôi lợn: Ước đàn lợn có 319.100 con, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2020. Chăn nuôi lợn trên địa bàn tỉnh có khuynh hướng giảm dần ở nông hộ và tăng dần ở doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi công nghệ cao CP. Bệnh dịch tả lợn châu Phi đã được kiểm soát, số lợn chết đã được tiêu hủy theo quy định.

- Chăn nuôi gia cầm: Ước đàn gia cầm có 4.738 ngàn con, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm 2020, trong đó đàn gà 3.350 ngàn con, tăng 18,8%; đàn gà có khuynh hướng tăng mạnh do nhiều trang trại chăn nuôi gà công nghiệp theo mô hình CP thành lập.

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật

Trong tháng trên địa bàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm như: Cúm gia cầm, lở mồm long móng, bệnh tai xanh trên lợn; một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch; bệnh viêm da nổi cục trên đàn bò cơ bản đã được khống chế; bệnh dịch tả lợn Châu phi xuất hiện vào cuối tháng 10 trên địa bàn xã Sông Phan huyện Hàm Tân tính đến ngày 4/11 số con bị tiêu hủy là 171 con, các địa phương khác không phát sinh dịch bệnh.

- Công tác tiêm phòng: Trong tháng đã tổ chức tiêm phòng 2.282,5 ngàn liều vắc xin. Trong đó đàn trâu, bò 26,7 ngàn liều; đàn lợn 35,3 ngàn liều; đàn gia cầm 2.219,8 ngàn liều. Lũy kế 11 tháng năm 2021 đã tiêm phòng 25.716,9 ngàn liều vắc xin.

- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 118,6 ngàn con lợn; 219 con trâu bò; 213,4 ngàn con gia cầm; 322,2 tấn thịt các loại; 2.200 ngàn quả trứng gia cầm; 48,2 tấn thịt sơ chế. Lũy kế 11 tháng năm 2021 đã kiểm dịch 912,8 ngàn con lợn; 20,7 ngàn con trâu bò; 3.885,5 ngàn con gia cầm; 4.508,9 tấn thịt các loại; 31.456 ngàn quả trứng gia cầm; 1.268,7 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ: Trong tháng đã kiểm soát giết mổ 190 con trâu bò; 2,7 ngàn con lợn; 500 con gia cầm. Luỹ kế 11 tháng năm 2021 đã kiểm soát 2,9 ngàn con trâu bò; 29,7 ngàn con lợn; 21,8 ngàn con gia cầm; 1,5 ngàn con dê.

II. Lâm nghiệp

- Công tác trồng rừng: Trong tháng đã trồng 525 ha, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 trồng 2.230 ha, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2020. Cơ cấu cây trồng tập trung chủ yếu là keo lai, keo lá liềm, bạch đàn, phi lao. Phần lớn diện tích rừng đang được các hộ dân bảo vệ tốt. Thực hiện giao khoán bảo vệ rừng chuyển tiếp đạt 133.670 ha.

- Công tác phòng cháy chữa cháy rừng: Công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng tiếp tục được các địa phương trên địa bàn tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện. Từ đầu năm đến nay không xảy ra cháy rừng, các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng, không gây cháy hoặc phát hiện cháy phải báo ngay cho trạm bảo vệ rừng gần nhất.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Lực lượng chức năng tập trung đẩy mạnh các biện pháp kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại những vùng trọng điểm giáp ranh và nội tỉnh, phối hợp cùng với các đơn vị chủ rừng, chính quyền địa phương tăng cường các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét, chú trọng theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm. Trong tháng đã phát hiện và lập hồ sơ xử lý 24 vụ vi phạm, tịch thu 18,24 m3 gỗ các loại; lũy kế từ đầu năm đến nay 258 vụ; tịch thu 235,61 m3 gỗ các loại.

4. Thuỷ sản

- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng trong tháng ước đạt 281,3 ha, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 2.528,9 ha, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2020 (trong đó diện tích nuôi cá đạt 965,5 ha, tăng 1,9%; diện tích nuôi tôm đạt 1.539,2 ha, tăng 1,9%). Do ảnh hưởng của thời tiết thất thường, một số khu vực tôm có hiện tượng bệnh gan, đường ruột; những ao tôm lớn các hộ thu bán sớm, ao tôm nhỏ các hộ đã chủ động điều trị và tiếp tục nuôi.

- Sản lượng nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 1.154 tấn, tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2020. Tình hình tiêu thụ, vận chuyển hàng hóa vẫn đang gặp khó khăn do ảnh hưởng của dịch covid-19. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 11.023,6 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2020 (trong đó cá các loại ước đạt 4.358 tấn, tăng 1,8%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 6.588,5 tấn, tăng 1,7%).

- Sản lượng khai thác: Trong tháng ngư dân ra khơi bám biển khai thác trong điều kiện thời tiết, ngư trường trên biển thuận lợi. Sản lượng khai thác trong tháng ước đạt 18.782,8 tấn, tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 206.930,1 tấn, tăng 1,8% so với cùng kỳ năm 2020 (trong đó khai thác biển ước đạt 206.351 tấn, tăng 1,8%).

- Sản xuất giống thuỷ sản: Hoạt động sản xuất, tiêu thụ tôm giống ổn định vào những tháng cuối năm. Sản lượng tôm giống sản suất trong tháng ước đạt 2,4 tỷ con, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 23,4 tỷ con, tăng 2,2% so với cùng kỳ năm 2020. Hoạt động sản xuất tôm giống gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu tôm giống bố mẹ luôn được duy trì thường xuyên.

 

 

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Trong tháng không có tàu cá và ngư dân vi phạm vùng biển nước ngoài bị bắt giữ; đã xử phạt vi phạm hành chính 31 vụ vi phạm với các hành vi: Tàng trữ công cụ kích điện, tàng trữ ngư cụ cấm, không đăng ký tàu cá, không chứng chỉ máy trưởng, không mua bảo hiểm cho thuyền viên. Tính từ đầu năm đến ngày 5/11/2021 đã xử phạt 276 vụ. Thực hiện việc lắp đặt thiết bị giám sát hành trình (VMS) trên tàu cá, tính đến ngày 09/11/2021 toàn tỉnh có 1.845/1.898 tàu cá có chiều dài từ 15 m trở lên đang hoạt động đã lắp đặt thiết bị VMS; công tác đăng kiểm tàu cá được thực hiện thường xuyên.

II. Công nghiệp - xây dựng; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp toàn ngành tháng 11/2021 ước tăng 0,66% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó ngành công nghiệp khai khoáng tăng 34,52%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 3,64%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí giảm 0,88%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,64%. Lũy kế 11 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp ước tăng 3,67% so với cùng năm 2020; trong đó, ngành khai khoán tiếp tục tăng cao nhất 38,57%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,48%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,18% mức tăng không cao so với cùng kỳ; ngành cung cấp nước hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 1,74%.

Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) tháng 11 ước đạt 3.057,41 tỷ đồng, tăng 11,90% so với tháng trước và tăng 3,61% so cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 32.569,76 tỷ đồng, tăng 4,95% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó công nghiệp khai khoáng 1.598,81 tỷ đồng, tăng 38,43%; công nghiệp chế biến chế tạo 15.717,35 tỷ đồng, tăng 4,13%; sản xuất và phân phối điện 15.014,85 tỷ đồng, tăng 3,24%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải 238,74 tỷ đồng, giảm 1,62%.

* Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu:

- Thức ăn gia súc: Dự ước trong tháng sản lượng đạt 36,16 ngàn tấn, giảm 0,49% so với tháng trước và tăng 26,13% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 378,67 ngàn tấn, tăng 20,70% so với cùng kỳ, do nhu cầu cung cấp thức ăn đàn gia súc đang tăng.

- Giày, dép thể thao: Dự ước trong tháng sản lượng đạt 365 ngàn đôi, tăng 96,94% so với tháng trước và tăng 14,66% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 3.611 ngàn đôi tăng 35,21% so với cùng kỳ do doanh nghiệp nhận được nhiều đơn hàng và do tháng cùng kỳ ảnh hưởng dịch Covid-19 sản lượng sản xuất thấp.

- Sản phẩm trang phục: Áo sơ mi dự ước trong tháng sản lượng đạt 1.864 ngàn cái, tăng 23,97% so với tháng trước và tăng 72,1% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 15.338 ngàn cái, tăng 18,14% so với cùng kỳ; bộ Com-lê (Jacket) dự ước sản lượng đạt 669 ngàn cái, tăng 8,98% so với tháng trước và tăng 82,94% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 6.739 ngàn cái, tăng 14,55% so với cùng kỳ.

- Điện sản xuất: Dự ước trong tháng sản lượng đạt 2.587 triệu kwh, tăng 17,01% so với tháng trước và giảm 0,85% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 27.942 triệu kwh, tăng 3,23% so với cùng kỳ. Trong tháng, Nhà máy Điện gió Thái Hòa tại xã Hòa Thắng, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận đã chính thức vận hành thương mại (COD). Nhà máy có tổng công suất 90 MW, sử dụng công nghệ điện gió mới nhất của Siemens, giúp tăng sản lượng điện cho nhà máy, giảm phát thải tiếng ồn, thân thiện với môi trường. Cung cấp cho hệ thống điện quốc gia khoảng  250 triệu kwh/năm.

- Sản phẩm cao su: Dự ước trong tháng sản lượng đạt 5.481 tấn, tăng 6,54% so với tháng trước và tăng 1,19% so với cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng năm 2021 sản lượng đạt 34.922 tấn, tăng 40,27% so với cùng kỳ.

 

* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Trong tháng, các doanh nghiệp đa số có nhiều cố gắng để hoạt động trở lại (tuy nhiên, hiện nay còn 04 doanh nghiệp chưa hoạt động lại gồm: Công ty TNHH PNP, Công ty TNHH Vật liệu Sơn Tịnh, Công ty VLXD Trường Thịnh - Nhà máy Silicat và Công ty TNHH XNK Trái cây Jin Guo Yuan). Theo đó, Doanh thu tháng 10/2021 ước đạt 480 tỷ đồng, lũy kế đạt 4.510 tỷ đồng, tăng 28,8% so với cùng kỳ năm 2020, đạt 72,7% kế hoạch năm. Nhiều doanh nghiệp đã chủ động thực hiện nghiêm yêu cầu 5K; sản xuất, ăn nghỉ giữa ca của công nhân, người lao động từng bước được bố trí hợp lý; test nhanh Covid-19 được thực hiện luân phiên, định kỳ để kịp thời phát hiện và chủ động phòng ngừa các trường hợp nghi nhiễm; một số doanh nghiệp đã chủ động xây dựng và thực hiện phương án sản xuất “3 tại chỗ”, “1 cung đường 2 điểm đến”,… các doanh nghiệp cơ bản giữ vững sản xuất; hầu hết các doanh nghiệp đã hoàn thành và hoàn thành xấp xỉ kế hoạch đề ra, mặc dù có khó khăn hơn song vẫn có một số chỉ tiêu đã đạt và vượt so với cùng kỳ năm trước.

2. Đầu tư phát triển

Tình hình dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp, đang mùa mưa bão ảnh hưởng nhiều đến thi công công trình, hoạt động ngành xây dựng và tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh khác rất khó khăn. Tuy nhiên các công trình trọng điểm năm 2021 của tỉnh vẫn đảm bảo tiến độ và đang thực hiện tốt, dự kiến sẽ hoàn thành kế hoạch năm 2021.

 

 

Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 437 tỷ đồng, tăng 3% so với tháng trướctăng 43,4% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng năm 2021 đạt 3.521,1 tỷ đồng, đạt 84,6% so với kế hoạch và giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước; trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh 2.905,1 tỷ đồng, giảm 2,8% và đạt 84,3% kế hoạch năm; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 547,8 tỷ đồng, giảm 13,9% và đạt 85,5% kế hoạch năm; vốn ngân sách nhà nước cấp xã 68,2 tỷ đồng, giảm 11,9% và đạt 85,3% kế hoạch năm. Trong đó vốn Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu là 1.119,5 tỷ đồng; vốn nước ngoài (ODA) 72,1 tỷ đồng và vốn xổ số kiến thiết là 908,2 tỷ đồng.

3. Đăng ký kinh doanh

Trong tháng 11 (từ ngày 15/10-15/11/2021), có 95 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 30 đơn vị trực thuộc), giảm 11,21% so với cùng kỳ năm 2020; tổng vốn đăng ký mới 677,49 tỷ đồng, tăng 12,33%; số doanh nghiệp đã giải thể 20 doanh nghiệp (trong đó có 10 đơn vị trực thuộc), giảm 16,67%; tạm ngừng hoạt động 9 doanh nghiệp (trong đó, có 2 đơn vị trực thuộc), giảm 47,06%; đăng ký thay đổi loại hình 98 doanh nghiệp, giảm 24,03%; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động 16 doanh nghiệp (trong đó có 5 đơn vị trực thuộc), tăng 23,08%.

Luỹ kế 11 tháng năm 2021 (tính đến 15/11/2021), có 875 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 323 đơn vị trực thuộc), giảm 31,59% so với cùng kỳ năm 2020; vốn đăng ký 8.089,89 tỷ đồng, giảm 7,65%; có 218 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 41 đơn vị trực thuộc) tăng 78,69%; tạm ngừng hoạt động 263 doanh nghiệp (trong đó có 54 đơn vị trực thuộc), tăng 1,94%; số lần đăng ký thay đổi 1.046 doang nghiệp (trong đó có 250 đơn vị trực thuộc), giảm 5,77%; chuyển đổi loại hình 57 doanh nghiệp (không có đơn vị trực thuộc), giảm 29,63% so với cùng kỳ năm 2020. Số doanh nghiệp đã giải thể 195 doanh nghiệp (trong đó có 95 đơn vị trực thuộc), giảm 29,35%.

 

 

Về quản lý doanh nghiệp sau đăng ký kinh doanh: Thông báo cảnh báo 08 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký (theo yêu cầu của cơ quan Thi hành án). Xử lý “mở khóa” hoạt động trở lại 03 trường hợp sau khi cơ quan thuế chấp thuận cho hoạt động trở lại.

4. Đăng ký đầu tư

Trong tháng trên địa bàn tỉnh không có dự án được cấp Quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư. Lũy kế 11 tháng năm 2021 (tính đến ngày 16/11/2021) trên địa bàn tỉnh có 27 dự án được cấp mới, với tổng diện tích đất 578 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 14.394 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2020, số dự án giảm 27 dự án, tổng diện tích đất bằng 84,7% so với cùng kỳ và tổng vốn đăng ký tăng 22,8%. Ngoài ra, cấp điều chỉnh Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư 42 dự án. Lũy kế từ trước đến nay có 1.593 dự án được cấp phép đầu tư, với tổng diện tích đất 50.003 ha, tổng vốn đầu tư đăng ký 333,045 ngàn tỷ đồng.

Trong tháng không có dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh và dự án thu hồi. Luỹ kế 11 tháng năm 2021, có 02 dự án khởi công, có 06 dự án đi vào hoạt động và 09 có dự án thu hồi. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng.

III. Thương mại; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả

Trong tháng các sơ sở kinh doanh trên địa bàn tỉnh đang hoạt động kinh doanh trong trạng thái “Bình thường mới”, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống dịch theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Công tác kiểm tra, kiểm soát chất lượng hàng hoá, an toàn thực phẩm, phòng chống dịch bệnh được các cấp chính quyền thực hiện triệt để nhằm hạn chế lây lan dịch bệnh, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng, ổn định giá cả, thiếu hàng, sốt giá; công tác kích cầu tiêu dùng được tăng cường thực hiện trong kinh doanh. Sức mua của người dân tăng hơn so với tháng trước, sau khi được nới lỏng các chợ dân sinh đã dần được mở lại, hoạt động lưu thông hàng hoá được phục hồi, cung ứng hàng hoá cho người dân tốt hơn. Các hệ thống siêu thị, cửa hàng điện máy, siêu thị tiện ích tiếp tục phục vụ đáp ứng nhu cầu cho người dân, tiếp tục duy trì các hình thức bán hàng online, bán hàng trực tuyến.

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong tháng ước đạt 5.410,3 tỷ đồng, tăng 1,83% so với tháng trước và giảm 8,94% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 4.349,8 tỷ đồng, tăng 1,57% so với tháng trước và tăng 9,59% so với cùng kỳ năm 2020. Hầu hết các nhóm ngành hàng tăng so với tháng trước, các nhóm ngành hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của người dân tăng cao; nhóm lương thực, thực phẩm dự ước đạt 2.228,4 tỷ đồng, tăng 1,86% so với tháng trước và tăng 11,12% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm văn hoá phẩm giáo dục dự ước 48,1 tỷ đồng, tăng 1,64% so với tháng trước và tăng 1,87% so với cùng kỳ năm 2020; nhóm hàng hoá khác dự ước 203,8 tỷ đồng, tăng 1,65% so với tháng trước và tăng 11,94% so với cùng kỳ năm 2020. Luỹ kế 11 tháng năm 2021 tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 53.962,3 tỷ đồng, giảm 1,22% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 40.791,8 tỷ đồng tăng 7,63% so với cùng kỳ năm 2020.

* Công tác quản lý thị trường: Công tác quản lý thị trường được tăng cường nhiều mặt, nhằm ngăn chặn tình trạng hàng lậu, hàng giả, gian lận thương mại, hàng kém chất lượng…tuy nhiên tình trạng vi phạm vẫn còn diễn ra. Trong tháng 10/2021 lực lượng Quản lý thị trường đã kiểm tra 111 vụ, phát hiện và xử lý 60 vụ vi phạm (trong đó, 08 vụ hàng hàng cấm, 14 vụ hàng nhập lậu, 06 vụ vi phạm về đầu cơ găm hàng, 11 vụ sai phạm trong lĩnh vực giá và 21 vụ vi phạm khác); đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 593 triệu đồng. Luỹ kế 10 tháng  năm 2021 đã kiểm tra 1.131 vụ, phát hiện và xử lý 350 vụ vi phạm (trong đó 44 vụ hàng hàng cấm, 56 vụ hàng nhập lậu, 10 vụ vi phạm về hàng giả, hàng kém chất lượng và sở hữu trí tuệ, 22 vụ vi phạm về đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 67 vụ vi phạm trong kinh doanh, 22 vụ vi phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm và 129 vụ vi phạm khác); xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 3.528,1 triệu đồng.

 

 

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11 năm 2021 tăng 0,13% so với tháng trước, tăng 4,03% so với cùng kỳ năm trước và tăng 3,63% so với tháng 12 năm trước; CPI bình quân 11 tháng năm 2021 so với cùng kỳ năm trước tăng 2,73%.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 07 nhóm hàng tăng giá: Giao thông tăng 3,88%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,40%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,10%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,09%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; Bưu chính viễn thông 0,05%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,02%. Có 02 nhóm hàng giảm giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,77%; May mặc, mũ nón và giầy dép giảm 0,18%. Có 2 nhóm hàng ổn định: Thuốc và dịch vụ y tế 100%; Giáo dục 100%.

 

CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 11 NĂM 2021 SO VỚI CÙNG KỲ NĂM TRƯỚC (%)

 

 

2. Hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch và dịch vụ gặp nhiều khó khăn, doanh thu và lượt khách giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước. Trong tháng ngành kinh doanh du lịch và dịch vụ tăng ở mức thấp so với tháng trước do ảnh hưởng diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid-19; vào cuối tháng 10 một số khách sạn đạt tiêu chuẩn thí điểm đón khách trở lại tuy nhiên lượng khách đến rất ít; với sự sụt giảm mạnh lượng khách quốc tế cũng như trong nước đã khiến nhiều khách sạn, nhà hàng và chuỗi bán lẻ tại các điểm du lịch phải chịu những khó khăn thiệt hại lớn. Khách du lịch đến Bình Thuận du lịch nghỉ dưỡng chủ yếu là khách nội địa.

Lượng khách du lịch trong tháng ước đạt ước đạt 7,45 ngàn lượt khách, tăng 1,96% so tháng trước và giảm 98,31% so với cùng kỳ năm 2020; ngày khách phục vụ ước đạt 17,4 ngàn ngày khách, tăng 2,4% so với tháng trước và giảm 97,91% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 lượt khách du lịch ước đạt 1.766,2 ngàn lượt khách, giảm 39,27% so với cùng kỳ năm 2020; ngày khách ước đạt 3.075,8 ngàn ngày khách, giảm 40,9% so với cùng kỳ năm 2020.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng ước đạt 53,6 tỷ đồng tăng 2,41% so với tháng trước và giảm 94,05% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 4.102,8 tỷ đồng, giảm 51,73% so với cùng kỳ năm 2020.

* Tình hình khách quốc tế: Trong tháng lượng khách quốc tế tăng nhẹ so với tháng trước, lượng khách này chủ yếu là chuyên gia và người nước ngoài đang làm việc tại Việt Nam, dự ước đạt 0,48 ngàn lượt khách, tăng 2,46% so với tháng trước và giảm 79,86% so với cùng kỳ năm 2020; ngày khách phục vụ dự ước đạt 2,1 ngàn ngày khách, tăng 2,67% so với tháng trước và giảm 87,02% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 22 ngàn lượt khách, giảm 87,04% so với cùng kỳ năm 2020; ngày khách phục vụ ước đạt 84,5 ngàn ngày khách giảm 86,07% so với cùng kỳ năm 2020.

3. Xuất, nhập khẩu

Mặc dù tình hình dịch Covid-19 đang diễn ra phức tạp nhưng các doanh nghiệp, công ty sản xuất hàng xuất khẩu áp dụng điều kiện sản xuất an toàn, hoạt động kinh doanh trong trạng thái Bình thường mới”, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt các biện pháp phòng chống dịch theo hướng dẫn của Bộ Y tế để đảm bảo đơn hàng đã ký kết trước đó.

 

-   Kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 49,57 triệu USD, giảm 1,06% so với tháng trước, và tăng 16,62% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 525,01 triệu USD, tăng 23,98% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 154,63 triệu USD, tăng 6,78%; nhóm hàng nông sản ước đạt 16,94 triệu USD, tăng 37,29%; nhóm hàng hóa khác ước đạt 353,43 triệu USD, tăng 32,71%. Dù ảnh hưởng dịch Covid-19 nhưng hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong các khu, cụm công nghiệp của tỉnh vẫn thực hiện những biện pháp sản xuất, kinh doanh phù hợp với tình hình để duy trì hoạt động.

+ Xuất khẩu trực tiếp lũy kế 11 tháng ước đạt 518,01 triệu USD, tăng 27,51% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 328,50 triệu USD, tăng 21,12% (tăng chủ yếu ở thị trường Nhật Bản các mặt hàng thủy sản, áo, quần dài; thị trường Campuchia các mặt hàng ngô hạt; thị trường Trung Quốc các mặt hàng quặng các loại; thị trường Đài Loan các mặt hàng bộ quần áo, mực tươi, quả tươi). Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 60,10 triệu USD, tăng 8,62% (tăng chủ yếu ở thị trường Nga các mặt hàng giày dép, quả tươi; thị trường Đức các mặt hàng tôm thẻ, sản phẩm từ sắt thép; thị trường Italia mặt hàng giày dép). Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 125,20 triệu USD, tăng 68,85% (tăng chủ yếu ở thị trường Mỹ các mặt hàng giày dép, đồ gỗ nội thất, tôm thẻ; thị trường Belizơ mặt hàng đế giày; thị trường Canada mặt hàng giày dép).

+ Ủy thác xuất khẩu lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 6,99 triệu USD, giảm 59,37% so với cùng kỳ năm 2020.

- Nhập khẩu lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 942,61 triệu USD, tăng 32,47% so với cùng kỳ năm 2020. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như thủy sản, thức ăn gia súc và nguyên liệu, nguyên phụ liệu dệt may, da giày.

4. Hoạt động vận tải

Trong tháng, tình hình hoạt động vận tải trên địa bàn tỉnh được tổ chức hoạt động theo cấp độ dịch, tạm thời dừng toàn bộ hoạt động của các phương tiện vận tải khách công cộng (gồm: phương tiện vận tải hành khách tuyến cố định liên tỉnh và nội tỉnh; xe taxi; xe vận chuyển khách du lịch; xe hợp đồng) đi/đến thành phố Phan Thiết và các bến xe khách trên địa bàn thành phố Phan Thiết cho đến khi có thông báo mới. Đối với hoạt động vận tải khách công cộng tại các huyện và thị xã La Gi thực hiện vận tải hành khách và hàng hoá theo Hướng dẫn số 3110/HD-SGTVT ngày 23/10/2021 của Sở Giao thông vận tải Bình Thuận (xác định cấp độ dịch theo địa bàn cấp xã).

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 11 đã vận chuyển 186,60 nghìn hành khách, tăng 12,45% so với tháng trước và giảm 87,51% so với cùng kỳ năm 2020; luân chuyển 5,20 triệu hk.km, tăng 25,42% so với tháng trước và giảm 93,45% so với cùng kỳ. Lũy kế 11 tháng năm 2021, vận chuyển 7.649,81 nghìn nh khách, giảm 43,26% so với cùng kỳ năm 2020 và luân chuyển 348,35 triệu hk.km, giảm 45,70% so cùng kỳ năm 2020.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng vận chuyển hành khách đường bộ đạt 185,60 nghìn hành khách và giảm 87,50%; lũy kế 11 tháng, đạt 7.597,57 nghìn hành khách, giảm 43,22% so với năm cùng kỳ năm 2020. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 1,00 nghìn hành khách, giảm 89,47%; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 52,24 nghìn hành khách, giảm 49,15% so với cùng kỳ năm 2020. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 5,096 triệu hk.km, giảm 93,50%; lũy kế 11 tháng năm 2021 đạt 342,68 triệu hk.km, giảm 45,64% so với cùng kỳ năm 2020. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 110,87 nghìn hk.km, giảm 86,06%; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 5,67 triệu hk.km, giảm 49,09% so với cùng kỳ năm 2020.

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 11 vận chuyển hàng hoá đạt 144,05 nghìn tấn, tăng 8,00% so với tháng trước và giảm 77,79% so với cùng kỳ năm 2020; luân chuyển hàng hoá đạt 10,375 triệu tấn.km, tăng 9,64% so với tháng trước và giảm 73,66% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021, đã vận chuyển 4.460,54 nghìn tấn hàng hoá, giảm 33,47% so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển hàng hoá đạt 245,80 triệu tấn.km, giảm 33,55% so với cùng kỳ năm 2020.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 143,71 nghìn tấn và giảm 77,77%; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 4.455,45 nghìn tấn, giảm 33,41% so với cùng kỳ năm 2020. Vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,34 nghìn tấn, giảm 42,08%; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 5,09 nghìn tấn, giảm 8,73% so với cùng kỳ năm 2020. Luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 10,34 triệu tấn.km và giảm 73,32%; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 245,22 triệu tấn.km, giảm 32,39% so với cùng kỳ năm 2020. Luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 39,26 nghìn tấn.km, giảm 36,94%; lũy kế 11 tháng năm 2021 đạt 585,26 nghìn tấn.km, giảm 8,07% so với cùng kỳ năm 2020.

- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 11 ước đạt 80.000 tấn; lũy kế 11 tháng năm 2021, đạt 868.054 tấn (trong đó khối lượng bốc xếp ngoài nước đạt 149.581 tấn); các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng, muối xá, thiết bị máy móc. Doanh thu tháng 11 ước đạt 10 tỷ đồng; lũy kế 11 tháng năm 2021 doanh thu ước đạt 178,689 tỷ đồng.

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi ước tháng 11 đạt 45 tỷ đồng, tăng 12,16% so với tháng trước và giảm 68,59% so với cùng kỳ năm 2020. Lũy kế 11 tháng năm 2021 ước đạt 981,65 tỷ đồng, giảm 33,43% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó doanh thu vận tải hành khách ước đạt 313,71 tỷ đồng, giảm 41,88%; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 639,98 tỷ đồng, giảm 28,97%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 27,96 tỷ đồng, giảm 17,49%.

 

 

5. Bưu chính, viễn thông

Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng; đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước và phục vụ người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Mạng lưới bưu chính, viễn thông với 1.260 cơ sở kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thông, đạt bán kính phục vụ bình quân 1,4 km/cơ sở. Tổng số thuê bao điện thoại các loại ước đạt 1.857.700 thuê bao (điện thoại cố định là 30.000 thuê bao, điện thoại di động trả sau là 33.000 thuê bao), mật độ điện thoại 148 thuê bao/100 dân, đạt 100% kế hoạch. Tổng số thuê bao Internet ước đạt 150.000 thuê bao, tỷ lệ người sử dụng Internet (quy đổi) là 66% và đạt 100% kế hoạch năm. Hệ thống truyền dẫn cáp quang, mạng internet băng rộng di động và cố định đã phủ đến 100% xã/phường/thị trấn; các doanh nghiệp đã triển khai đầu tư mở rộng nhiều tuyến truyền dẫn quang với khoảng hơn 6.500.000 km với nhiều vòng ring, hạ tầng truyền dẫn đã triển khai phủ khắp các cấp huyện, cấp xã (riêng huyện Phú Quý hạ tầng truyền dẫn dùng Vệ tinh và 3 tuyến vi ba dùng để truyền từ đất liền ra đảo, mạng cáp quang đã phủ khắp đảo). Tổng số vị trí trạm BTS 1.545 vị trí, với vùng phủ sóng di động 2G, 3G, 4G đạt khoảng 98% dân số trên toàn tỉnh.

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Ước thu ngân sách tháng 11 năm 2021 đạt 480 tỷ đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2021, ước đạt 11.724,33 tỷ đồng, đạt 140,29% dự toán năm và tăng 18,23% so với cùng kỳ năm 2020; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 8.641,48 tỷ đồng, đạt 143,55% dự toán năm, tăng 11,31%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác 7.110,17 tỷ đồng, đạt 138,60% dự toán năm, tăng 15,37%; thu tiền nhà, đất 1.531,31 tỷ đồng, đạt 172,06% dự toán năm, giảm 4,30% (trong đó thu tiền sử dụng đất 1.336,47 tỷ đồng, đạt 190,93% dự toán năm, tăng 29,32% so với cùng kỳ năm 2020); thu dầu thô 1.380 tỷ đồng, đạt 172,52% dự toán năm và tăng 31,45%; thu thuế xuất nhập khẩu 1.702,68 tỷ đồng, đạt 113,51% dự toán toán năm và tăng 54,33%.

Tổng chi ngân sách trong tháng 11 năm 2021 ước thực hiện 450 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 400 tỷ đồng); lũy kế 11 tháng năm 2021, ước đạt 13.129,24 tỷ đồng (chi ngân sách nhà nước 9.270,40 tỷ đồng); trong đó chi đầu tư phát triển 3.969,70 tỷ đồng, chi thường xuyên 5.300,06 tỷ đồng.

 

2. Hoạt động tín dụng

Tính đến ngày 20/10/2021, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 2.128 tỷ đồng/9.883 khách hàng; giảm lãi vay cho khách hàng với số tiền lãi được giảm 62,14 tỷ đồng; cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với lãi suất thấp hơn so với trước khi dịch bệnh xảy ra, doanh số cho vay mới lũy kế từ ngày 23/01/2020 đến ngày 20/10/2021 là 35.645 tỷ đồng. Tính đến ngày 30/9/2021, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn 1.064 tỷ đồng, chiếm 1,45% tổng dư nợ, tăng 0,39% so với đầu năm (do dịch Covid-19 đã tác động bất lợi đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân trên địa bàn, dẫn tới sụt giảm doanh thu, mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, gia tăng rủi ro về thu hồi nợ, làm nợ xấu gia tăng).

Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 3-3,95%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 3,6-6,7%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 4,4-6,9%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 5,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7-9%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 9-11,5%/năm.

Hoạt động huy động vốn (tính đến ngày 30/9/2021), nguồn vốn huy động đạt 44.977 tỷ đồng, tăng 9,77% so với đầu năm và tăng 1,04% so với cùng kỳ năm 2020. Ước đến ngày 30/11/2021, vốn huy động đạt 45.480 tỷ đồng, tăng 11% so với đầu năm.

Hoạt động tín dụng (tính đến ngày 30/9/2021), tổng dư nợ cho vay đạt 73.292 tỷ đồng, tăng 5,19% so với đầu năm và tăng 7,14% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 72.075 tỷ đồng, chiếm 98,3% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 41.117 tỷ đồng, chiếm 56,2% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm khoảng 5,13% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm khoảng 6,5% tổng dư nợ, lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 38,2% tổng dư nợ; lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 45,57% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 4,6% tổng dư nợ. Ước đến 30/11/2021, dư nợ đạt 74.553 tỷ đồng, tăng 7% so với đầu năm.

Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 39.565 tỷ đồng, chiếm 53,98% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước tăng 9,3%); dư nợ cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao đạt 355 tỷ đồng, tăng 10,58% so với đầu năm, chiếm 0,48% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước giảm 1,96%); dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 517 tỷ đồng, tăng 1,4% so với đầu năm, chiếm 0,7% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước tăng 2,5%); dư nợ cho vay DNNVV đạt 16.449 tỷ đồng, tăng 15,3% so với đầu năm, chiếm 22,4% tổng dư nợ (cùng kỳ năm trước tăng 6,27%).

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ (nợ nội bảng) đạt 865,35 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 269,7 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 590,5 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 5,15 tỷ đồng). Nợ xấu 43,79 tỷ đồng/5 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 169,2 tỷ đồng/90 tàu.

Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 3.178 tỷ đồng/102.067 hộ, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP đạt 73,89 tỷ đồng/204 hộ.

Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động được vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất theo Quyết định 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ, tính đến 20/10/2021 đã giải ngân cho vay 1.563 triệu đồng cho 06 doanh nghiệp để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 413 lao động, trong đó cho vay để trả lương ngừng việc với số tiền 250 triệu đồng/04 doanh nghiệp/78 lao động và cho vay để trả lương cho lao động phục hồi sản xuất với số tiền 1.313 triệu đồng/02 doanh nghiệp/335 lao động.

Công tác điều hòa tiền mặt, công tác an toàn kho quỹ tiếp tục được thực hiện tốt; hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng hoạt động thông suốt. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục hoạt động ổn định, thông suốt và an toàn. Đến 30/9/2021, trên địa bàn có 187 máy ATM, tăng 03 máy so với đầu năm và 1.546 máy POS, giảm 167 máy so với đầu năm (do các ngân hàng thực hiện rà soát, sắp xếp lại việc lắp đặt máy cho hiệu quả, tránh trùng lắp, một số máy POS được thu hồi nhưng chưa triển khai lắp đặt lại tại nơi khác), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục phát triển theo hướng ổn định. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 9 tháng đầu năm 2021 đạt 428 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 67,9 triệu USD.

V. Lĩnh vực Văn h - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa - Thể dục thể thao

Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tuyên truyền kỷ niệm 26 năm ngày du lịch Bình Thuận (24/10/1995 - 24/10/2021); 91 năm Ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 -  20/10/2021); Ngày quốc tế Người cao tuổi (01/10); Ngày Toàn dân phòng cháy và chữa cháy (04/10); tuyên truyền phòng, chống ma tuý; chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19…

Hoạt động văn nghệ: Trong tháng, tạm dừng các hoạt động biểu diễn để đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19.

Hoạt động Thư viện: Số lượt bạn đọc truy cập website 203.124 lượt. Luân chuyển tài liệu trực tuyến 499 lượt. Sưu tầm 15 tin, bài chuyên mục Thông tin kinh tế; 97 tin, bài Thông tin tư liệu Bình Thuận.

Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Không đón khách tham quan để đảm bảo công tác phòng chống dịch Covid-19. Tập hợp dữ liệu về cụ nghè Trương Gia Mô, chùa Phước An liên quan đến sự kiện thầy giáo Nguyễn Tất Thành và thực hiện kế hoạch tuyển tập nội dung sách về Thầy giáo Nguyễn Tất Thành với mái trường Dục Thanh. Đang xây dựng kế hoạch tổ chức khảo sát, thu thập thông tin tư liệu Khu bảo tồn biển Hòn Cau, xã Phước Thể, huyện Tuy Phong để triển khai lập hồ sơ khoa học trình xếp hạng thắng cảnh cấp tỉnh năm 2022.

Hoạt động Thể thao: Thể dục thể thao quần chúng trong tháng, đã tạm dừng tổ chức các hoạt động thể thao để phòng, chống dịch Covid-19. Thể thao thành tích cao: Không cử đội thể thao tham gia thi đấu các giải khu vực, quốc gia, quốc tế cho đến khi có thông báo mới. Tính đến tháng 10/2021, tổng số huy chương đạt được 86 huy chương, trong đó 20 huy chương vàng, 23 huy chương bạc, 43 huy chương đồng.

2. Giáo dục và Đào tạo

Dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, hầu hết học sinh không thể trực tiếp đến trường, một số cơ sở giáo dục trở thành cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, để chủ động về mặt thời gian và đảm bảo tiến độ chương trình năm học 2021- 2022, ngành đã triển khai nhiều đợt tập huấn chuyên môn liên quan đến dạy học trực tuyến, để giúp giáo viên có thêm nhiều kĩ năng, nhiều lựa chọn vận dụng linh hoạt vào quá trình dạy học, giúp tăng cường hứng thú của học sinh đối với các môn học. Bên cạnh đó chủ động lựa chọn hình thức ra đề kiểm tra thường xuyên, định kỳ phù hợp, bảo đảm việc kiểm tra, đánh giá, chính xác, công bằng, khách quan, trung thực…

Năm học 2021-2022, toàn tỉnh có 256 trường tiểu học (trong đó có 87 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 150 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 165 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học); 130 trường THCS (trong đó có 29 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 101 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 13 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học); 28 trường THPT (trong đó có 01 trường tổ chức dạy học trực tiếp, 27 trường tổ chức dạy học trực tuyến, 28 trường tổ chức học qua truyền hình, không có trường chưa triển khai tổ chức dạy học).

Tính từ đầu năm đến ngày 31/10/2021, toàn tỉnh có thêm 08 trường đạt chuẩn Quốc gia (trong đó có 03 trường Tiểu học, 05 trường THCS). Lũy kế đến thời điểm hiện tại, tổng số trường đạt chuẩn trên toàn tỉnh là 269/538 trường công lập, đạt 50%.

3. Y tế

Trong tháng tập trung triển khai thực hiện các công tác phòng, chống dịch Covid-19. Tính đến 18 giờ ngày 21/11/2021, toàn tỉnh đã ghi nhận 12.260 ca mắc COVID-19 (Phan Thiết 5.529, La Gi 2.161, Hàm Thuận Bắc 1.140, Tuy Phong 1.053, Bắc Bình 573, Đức Linh 542, Hàm Thuận Nam 506, Tánh Linh 376, Hàm Tân 210, Phú Quý 170). Trong đó có 5.374 ca đang được điều trị tại cơ sở y tế, 6.799 ca đã điều trị khỏi và xuất viện (La Gi 1.991, Phan Thiết 3.013), 98 ca tử vong (11 ca tử vong tại thành phố Hồ Chí Minh). Số trường hợp cách ly 46.791, trong đó đang cách ly là 7.834, hoàn thành cách ly 38.957 (cơ sở y tế 13.285; khu cách ly tập trung của địa phương 33.189; cơ sở cách ly tập trung có thu phí 317). Có 60.644 trường hợp cách ly tại nhà (đang cách ly 5.917, hoàn thành cách ly 54.727); Có 3.106.101 mẫu đã xét nghiệm; có 1.001.530 người được kiểm tra, giám sát tại các chốt kiểm soát; 16.150 trường hợp F1 và 15.792 trường hợp F2 của các trường hợp mắc Covid-19 đã điều tra giám sát được; 1.167.899 người đã tiêm vắc xin (có 843.360 người đã tiêm mũi 1 và 324.539 người tiêm mũi 2).

 

 

Trong tháng (từ ngày 15/10-15/11/2021) toàn tỉnh có 228 cas mắc sốt xuất huyết, không có cas tử vong; Không có cas mắc tay chân miệng và mắc sốt rét ác tính. Số bệnh nhân mắc bệnh phong 09 bệnh nhân, số bệnh nhân mới phát hiện 01, số bệnh nhân đang quản lý 409 bệnh nhân đang quản lý và 01 bệnh nhân phong mới tàn tật độ II.

Công tác phòng chống Lao: Có 523 tổng số lượt khám, số bệnh nhân thu dung điều trị 95. Số bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới 80.

Số nhiễm HIV mới phát hiện 08 cas (tích luỹ 1.647 cas); có 01 cas chuyển AIDS mới (tích luỹ 1.081 cas); không có cas tử vong (tích luỹ 535 cas).

Trong tháng không xảy ra ngộ độc thực phẩm; các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng, số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh 59.211 lượt, số bệnh điều trị nội trú 8.531, số bệnh nhân chuyển viện 680, số bệnh nhân tử vong 38. Công suất sử dụng giường bệnh tại các tuyến đạt từ 42,8% đến 90,8%.

4. Lao động - xã hội

- Trong tháng, đã giải quyết việc làm cho 639 lao động, tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp 561 người (bằng hình thức trực tuyến); lũy kế 11 tháng năm 2021 đã giải quyết việc làm cho 14.411 lao động, đạt 72,05% so kế hoạch năm; trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm cho 1.446 lao động, đạt 103,28% so với kế hoạch năm. Tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp 7.112 người, đạt 118,5% so với kế hoạch năm. Vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 8,406 tỷ đồng, đạt 140,1% so với kế hoạch năm, tăng 34,9% so với cùng kỳ năm 2020; Quỹ Bảo trợ trẻ em 1.177,57 triệu đồng, đạt 58,88% kế hoạch năm.

- Công tác chính sách người có công: Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 54 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công. Trợ cấp mai táng phí cho 46 trường hợp. Tham mưu tỉnh ban hành Quyết định trợ mai táng phí cho 48 trường hợp.

- Kết quả thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021 của Chính phủ và Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ:

+ Chính sách giảm mức đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp: Đã hoàn thành việc giảm mức đóng (bằng 0%) vào quỹ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cho 3.188 đơn vị, doanh nghiệp/86.400 lao động thuộc diện giảm đóng từ ngày 01/7/2021 đến ngày 30/6/2022 (12 tháng), với tổng số tiền giảm đóng 27.945,141 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử tuất: Tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí và tử  tuất cho 13 doanh nghiệp/3.797 lao động, tổng số tiền tạm dừng đóng đến tháng 11/2021 là 22.472,101 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương: Đã tiếp nhận hồ sơ tạm hoãn hợp đồng lao động, nghỉ việc không hưởng lương của 389 doanh nghiệp/8.122 lao động/32.008,04 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 197 người/197 triệu đồng; lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 2.042 người/2.042 triệu đồng. Phê duyệt hỗ trợ cho 298 doanh nghiệp/7.295 lao động/28.658,16 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 171 người/171 triệu đồng; lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 1.790 người/1.790 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ người lao động ngừng việc: Đã tiếp nhận hồ sơ lao động ngừng việc của 17 doanh nghiệp/452 lao động/624 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 17 người/17 triệu đồng; lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 155 người/155 triệu đồng. Phê duyệt hỗ trợ cho 11 doanh nghiệp/80 lao động/105 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 04 người/4 triệu đồng; lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 21 người/21 triệu đồng. Số hồ sơ còn lại đang hoàn tất thủ tục trình phê duyệt.

+ Chính sách hỗ trợ người lao động chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp: Tiếp nhận hồ sơ chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 17 người/70,07 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 1 người/1 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 6 người/ 6 triệu đồng. Tỉnh đã phê duyệt hồ sơ chấm dứt hợp đồng lao động nhưng không đủ điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 17 người/70,07 triệu đồng, trong đó hỗ trợ thêm cho lao động đang mang thai 1 người/1 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho lao động đang nuôi con dưới 6 tuổi 6 người/6 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ đối với trẻ em và người đang điều trị Covid-19, cách ly y tế: Đã tiếp nhận hồ sơ hỗ trợ tiền ăn cho 2.300 người (F0)/2.371,64 triệu đồng; hỗ trợ tiền ăn cho 4.133 người (F1)/4.674,68 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho 788 trẻ em (F0, F1)/788 triệu đồng. Đã phê duyệt hỗ trợ tiền ăn cho 1.727 người (F0)/ 2.367,12 triệu đồng; hỗ trợ tiền ăn cho 1.785 người (F1)/2.096,32 triệu đồng; hỗ trợ thêm cho 628 trẻ em (F0, F1)/628 triệu đồng. Số hồ sơ còn lại đang hoàn tất thủ tục trình phê duyệt.

+ Chính sách hỗ trợ viên chức hoạt động nghệ thuật và người lao động là hướng dẫn viên du lịch: Tỉnh phê duyệt hỗ trợ cho 02 đơn vị/26 viên chức hoạt động nghệ thuật với số tiền 96,46 triệu đồng; 38 người lao động là hướng dẫn viên du lịch với số tiền 140,98 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ hộ kinh doanh: Tiếp nhận hồ sơ đề nghị hỗ trợ của  2.109 hộ kinh doanh/6.327 triệu đồng. Tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 1.839 hộ kinh doanh/5.517 triệu đồng. Số hồ sơ còn lại đang hoàn tất thủ tục trình phê duyệt.

+ Chính sách hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất: Chi nhánh Ngân hàng CSXH tỉnh hỗ trợ người sử dụng lao động vay vốn để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất cho 05 doanh nghiệp/144 người/1.055 triệu đồng.

+ Chính sách hỗ trợ lao động không giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) và đối tượng đặc thù khác theo điểm 12, mục II Nghị quyết số 68 của Chính phủ và Quyết định số 2108/QĐ-UBND của UBND tỉnh: Đã tiếp nhận hồ sơ hỗ trợ cho 34.628 người/51.942 triệu đồng. Tỉnh đã phê duyệt hỗ trợ cho 26.409 người/39.613,5 triệu đồng. Số hồ sơ còn lại đang hoàn tất thủ tục trình phê duyệt.

- Tính đến nay đã tổ chức đưa 10 đợt với 2.535 người dân trở về tỉnh, cụ thể: TP. Hồ Chí Minh 2.204 người (đợt 1: 151 người, đợt 2: 279 người, đợt 3: 338 người, đợt 4: 388 người, đợt 5: 430 người, đợt 6: 500 người đợt 7: 118 người của huyện Bắc Bình); Long An 08 người. Bình Dương: 233 người, Đồng Nai: 19 người; Bà Rịa - Vũng Tàu: 71 người.

- Trên địa bàn tỉnh có 4.294 người nghiện có hồ sơ quản lý; trong đó đang quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh 200/02 nữ; quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 363 người; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 634 người; 3.097 đang được các ban, ngành, đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục. Có 112/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma tuý, chiếm 90,32% số xã, phường, thị trấn có người nghiện.

6. Hoạt động bảo hiểm

Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch.

Tính đến ngày 31/10/2021, toàn tỉnh có 84.535 người tham gia BHXH bắt buộc, giảm 7,4% so với cùng kỳ năm 2020; có 75.953 người tham gia BHTN, giảm 7,5%; số người tham gia BHXH tự nguyện 11.431 người, tăng 46,3%; số người tham gia BHYT 972.917 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.161 người), giảm 1,7%. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 86,1% dân số.

 

 

Trong tháng đã xét duyệt, giải quyết cho 3.340 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 18,3% so với cùng kỳ năm 2020. Trong đó hưởng các chế độ BHXH dài hạn 90 người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 1.169 người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 1.475 lượt người; hưởng trợ cấp BHTN 606 người.

Lũy kế 10 tháng đã xét duyệt cho 45.151 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, giảm 10,9% so với cùng kỳ 2020. Trong đó hưởng các chế độ BHXH dài hạn 789 người; hưởng trợ cấp BHTN 8.372 người; hưởng trợ cấp BHXH một lần 11.232 người; hưởng chế độ BHXH ngắn hạn 24.758 lượt người.

Tính đến ngày 31/10/2021, tổng số đối tượng đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn 16.806 người; tổng số thu 1.960,3 tỷ đồng, giảm 0,14% so với cùng kỳ năm 2020; tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp 161,24 tỷ đồng, tăng 26,53% so với cùng kỳ năm 2020; tổng học sinh sinh viên tham gia BHYT 221.072 em, đạt 92,7%, còn 17.522 em chưa tham gia BHYT (chiếm 7,3% trong tổng sĩ số học sinh sinh viên) do tình hình dịch bệnh nên các trường chưa tổ chức nhập học, nên chưa thể vận động các em tham gia và đáo hạn BHYT.

7. Tai nạn giao thông (từ 15/10 - 14/11/2021)

Số vụ tai nạn giao thông 24 vụ, so với tháng trước tăng 14 vụ và so với cùng kỳ năm 2020 giảm 19 vụ. Luỹ kế 11 tháng năm 2021, đã xảy ra 236 vụ (trong đó đường sắt không xảy ra), so với cùng kỳ năm 2020 giảm 90 vụ.

Số người bị thương 21 người bằng so với tháng trước tăng 14 người và giảm 19 người so với cùng kỳ năm 2020. Luỹ kế 11 tháng năm 2021, có 140 người, giảm 92 người so với cùng kỳ năm 2020.

Số người chết 11 người, tăng 07 người so với tháng trước và giảm 01 người so với cùng kỳ năm 2020. Luỹ kế 11 tháng năm 2021 có 146 người chết, so với cùng kỳ năm trước giảm 31 người.

 

 

Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặt biệt nghiêm trọng. Số vụ tai nạn giảm so với cùng kỳ năm 2020 nguyên nhân do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 toàn tỉnh vẫn đang thực hiện phong tỏa, cách ly theo vùng và tạm thời dừng toàn bộ hoạt động của các phương tiện vận tải khách công cộng.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 3 vụ thiên tai, trong đó có 01 vụ sét đánh làm 01 người chết và 02 vụ mưa lớn kéo dài gây ngập lụt, ước giá trị thiệt hại 15 tỷ đồng. Trong đó Đức Linh xảy ra 02 vụ mưa lớn kéo dài gây ngập lụt, kèm sét đánh làm chết 01 người, làm ngập tốc mái 2 căn nhà, 1.137,5 ha lúa, 10,1 ha hoa màu, 68 ha sen, 37,5 ha nuôi trồng thủy sản bị ngập (ước thiệt hại 10.000 triệu); Tánh Linh xảy ra 01 vụ mưa lớn mưa kết hợp xả điều tiết qua tràn hồ Hàm Thuận làm ngập 1.200 ha lúa, 1 ha nuôi cá, sạt lở 50m đê bao đống (ước thiệt hại 5.000 triệu). Lũy kế 11 tháng xảy ra 50 đợt thiên tai, ước tổng giá trị thiệt 66,99 tỷ đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 02 vụ cháy (giảm 02 vụ so với cùng kỳ), không có người bị thương, thiệt hại 10 triệu đồng, không xảy ra nổ. Lũy kế 11 tháng có 50 vụ cháy (giảm 19 vụ so cùng kỳ), thiệt hại 4.911,2 triệu đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong tháng phát hiện 02 vụ xử phạt 356,8 triệu đồng. Lũy kế 11 tháng, đã xảy ra 27 vụ (tăng 8 vụ  so với cùng kỳ); tổng tiền đã xử phạt 3.620,3 triệu đồng.

 

Kèm file số liệu : KTXH_thang11_2021.pdf

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/