Tình hình kinh tế xã hội tháng 9 năm 2019
Trong tháng 9, sản lượng thủy sản ước đạt 26.276,9 tấn, tăng 1,07% so cùng kỳ, diện tích nuôi trồng thuỷ sản luỹ kế 9 tháng ước đạt 2.192,8 ha, tăng 2,02% so cùng kỳ. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tăng 32,59% so cùng kỳ năm trước. Ước thu ngân sách tháng 9 đạt 600 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đạt 9.772,1 tỷ đồng, đạt 104,18% dự toán năm, tăng 25,27% so cùng kỳ năm trước,...
I. Nông - Lâm - Thuỷ sản
1. Trồng trọt:
* Cây hàng năm:
Qua 9 tháng, tình hình sản xuất vụ Đông xuân và vụ Hè thu nhìn chung thuận lợi về thời tiết, nguồn nước tưới cho diện tích sản xuất được đảm bảo. Tuy nhiên ở vụ Hè thu vẫn có nơi xảy ra nắng cục bộ làm ảnh hưởng đến việc sản xuất, chủ yếu ở những khu vực sản xuất dựa vào nguồn nước trời, trong vụ Hè thu có xảy ra hiện tượng mưa lớn và kèm theo lốc xoáy như trên địa bàn huyện Tánh Linh làm ảnh hưởng đến một số diện tích, năng suất cây trồng nhưng không đáng kể. Từ cuối tháng 8 trên địa bàn tỉnh đã tiến hành sản xuất vụ Mùa song song với việc thu hoạch vụ Hè thu, tình hình sản xuất vụ Mùa đến nay nhìn chung thuận lợi, các địa phương đã tập trung xuống giống vụ đồng loạt nhằm né rầy, hạn chế sâu bệnh hại trên cây trồng.
Trong cơ cấu đất trồng từ đầu năm đến nay có sự chuyển đổi diện tích cây lúa kém hiệu quả sang các loại cây ngắn ngày khác như bắp, đậu phộng, rau các loại và cây lâu năm nhằm mục đích phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, hạn chế sâu bệnh hại, cụ thể trong vụ Đông Xuân 2018 - 2019, địa phương đã thực hiện chuyển đổi 4.769 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn. Chương trình xã hội hoá giống lúa được chú trọng triển khai.
- Sản xuất vụ Đông xuân: diện tích gieo trồng đạt 47.490,6 ha, bằng 99,3% so vụ cùng kỳ, trong đó diện tích cây lúa đạt 36.972,1 ha, bằng 98,2% so vụ cùng kỳ, cây bắp đạt 3.557,2 ha, tăng 13,9% so vụ cùng kỳ. Sản lượng lương thực đạt 269.505,3 tấn, so cùng kỳ tăng 0,46%, năng suất lương thực đạt 66,5 tạ/ha.
- Sơ bộ sản xuất vụ Hè thu: diện tích gieo trồng đạt 60.263,8 ha, bằng 92,8% so vụ cùng kỳ, trong đó diện tích lúa đạt 39.154,5 ha, bằng 89,2% so vụ cùng kỳ, cây bắp đạt 6.868,1 ha, bằng 90,2% cùng kỳ. Sản lượng lương thực đạt 258.574,2 tấn, so cùng kỳ giảm 6,2%, năng suất lương thực đạt 56,2 tạ/ha.
- Tiến độ sản xuất vụ Mùa: Cùng với việc thu hoạch vụ Hè thu các địa phương tiến hành xuống giống vụ Mùa, nhìn chung vụ Mùa năm nay tình hình thuận lợi hơn năm trước, hiện nay các địa phương đang triển khai xuống giống đồng loạt, ước cuối tháng 9 đầu tháng 10 sẽ cơ bản việc xuống giống sản xuất vụ. Tính đến ngày 15/9 xuống giống vụ Mùa đạt 28.913,7 ha tăng 16,6% so vụ cùng kỳ, trong đó: lúa đạt 21.810,9 ha, tăng 12,2% so vụ cùng kỳ; bắp đạt 2.533 ha, tăng 3,3 % so vụ cùng kỳ; rau các loại đạt 1.675,8 ha tăng 39% so vụ cùng kỳ; đậu các loại đạt 1.161,9 ha, tăng 200,4% so vụ cùng kỳ;
* Cây lâu năm:
Trong 9 tháng, thị trường tiêu thụ, giá sản phẩm đầu ra một số cây lâu năm thấp như: cao su, tiêu; tình hình sâu bệnh trên cây tiêu,... đã phần nào ảnh hưởng nhiều việc phát triển diện tích loại cây này và một số loại cây lâu năm trên địa bàn tỉnh.
Tính đến thời điểm ngày 15/9/2019, tổng diện tích cây lâu năm ước đạt 107.594,2 ha, tăng 0,3% so cùng kỳ (+323 ha), trong đó: diện tích cây công nghiệp lâu năm 64.663,9 ha giảm 0,4% so cùng kỳ (-236,2 ha); cây ăn quả lâu năm đạt 41.388,3 ha tăng 1,8% so cùng kỳ (+ 727,5 ha); cây lâu năm còn lại 1.542 ha giảm 8,4% so cùng kỳ (- 141,4 ha). Diện tích và sản lượng ước 9 tháng một số cây lâu năm chủ lực của tỉnh như sau:
- Thanh long: Tổng diện tích ước đạt 29.740 ha, tăng 2,1% so cùng kỳ (+ 607,4 ha). Diện tích tăng chủ yếu ở Hàm Tân (+ 368, ha), Bắc Bình (+ 84 ha), các địa phương còn lại diện tích tăng, giảm không đáng kể. Riêng Hàm Thuận Bắc giảm 72 ha do diện tích già năng suất thấp nhà vườn chặt bỏ thay thế cây trồng khác và phần do diện tích thanh long bị san lấp, bồi nền, mua bán đất thổ cư ở các xã, thị trấn như: Hàm Hiệp, Hàm Thắng, Phú Long. Sản lượng thu hoạch 9 tháng ước đạt 407.200 tấn, tăng 4,6% so cùng kỳ (+17.749,9 tấn). Đến thời điểm ngày 15/9/2019, có 9.843,974 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap đạt 96,51% kế hoạch.
- Cây điều: Tổng diện tích ước 17.800 ha, tăng 1,4 % so cùng kỳ (+ 247,6 ha). Hiện đã kết thúc vụ thu hoạch, giá điều, năng suất thu hoạch năm nay nhìn chung ổn định. Nhìn chung, cây điều có khuynh hướng phát triển diện tích ở một số huyện phía nam như: Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh với nhiều loại giống cao sản; các địa phương phía bắc như Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc diện tích phát triển chậm hơn do phần lớn diện tích đất cát kém màu mở, năng suất thấp. Riêng khu vực Tp. Phan Thiết diện tích giảm do một số diện tích nằm trong vùng quy hoạch sân bay, La Gi giảm do san lắp mặt bằng chuyển đất thổ cư. Sản lượng thu hoạch ước đạt 10.750 tấn tăng 0,8% so cùng kỳ (+86 tấn), do năm nay tình hình thời tiết thuận lợi, năng suất ở các địa phương phía nam như: Hàm Tân, Tánh Linh, Đức Linh tăng khá. Hiện giá điều đang ở mức ổn định, đa số nhà vườn có lãi.
- Cây cao su: Tổng diện tích ước đạt 43.000 ha giảm 0,9 % so cùng kỳ (-368,7 ha). Diện tích cao su giảm do giá thấp, một số vườn già, năng suất kém, nhà vườn chặt bỏ để trồng cây khác. Sản lượng 9 tháng ước đạt 25.100 tấn tăng 2,2% so cùng kỳ (+ 530 tấn), sản lượng tăng chủ yếu là do tăng diện tích đến kỳ cho thu hoạch sản phẩm.
- Cây tiêu: Tổng diện tích ước đạt 1.550 ha, giảm 11,7% so cùng kỳ % (-205,8 ha). Nguyên nhân giảm là do nấm bệnh diện tích tiêu chết (Đức Linh cuối năm 2018 chết 260 ha). Hiện đã kết thúc thu hoạch vụ, sản lượng thu hoạch ước đạt 1.610 tấn giảm 10% so cùng kỳ (-178,7 tấn). Nguyên nhân giảm là do nấm bệnh diện tích tiêu chết (Đức Linh 260 ha), năng suất theo một số nhà vườn cũng thấp hơn.
- Cây cà phê: Tổng diện tích ước đạt 2.300 ha, tăng 2,9 % so cùng kỳ (+64 ha). Cây cà phê tập trung ở Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh và Đức Linh. Sản lượng ước đạt 976 tấn, tăng 3% so cùng kỳ.
Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,...
* Tình hình sâu bệnh: Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, chỉ xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: Diện tích nhiễm rầy nâu là 3.208 ha (nhiễm nhẹ 118 ha, trung bình 2.695 ha, nặng 395 ha) tăng 1810 ha so cùng kỳ, gây hại chủ yếu ở các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình; Sâu cuốn lá diện tích nhiễm 1.049 ha, trong đó diện tích nhiễm nhẹ: 1.049 ha; tăng 391 ha so cùng kỳ; Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm 1.491 ha, trong đó diện tích nhiễm nhẹ là 1.463 ha, diện tích nhiễm trung bình là 28 ha, tăng 17 ha so cùng kỳ, bệnh gây hại chủ yếu tại các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình; Bệnh bạc lá (cháy bìa lá, khô đầu lá) do vi khuẩn diện tích nhiễm 1.981 ha, tăng 890 ha so cùng kỳ, bệnh gây hại nặng trên những ruộng lúa sạ dày, bón nhiều phân Đạm; Bọ trĩ tập trung ở lúa vụ Đông Xuân, diện tích nhiễm 1.168 ha tăng 953 ha so cùng kỳ năm 2018; Các đối tượng gây hại khác như sâu đục thân, bệnh đốm vằn, bệnh lem lép hạt, đạo ôn cổ bông,... xuất hiện và gây hại rải rác với tỉ lệ hại thấp, không đáng kể.
- Cây mỳ: Bệnh khảm lá virus hại đã phát triển và gây hại trên các vùng trồng mì của tỉnh diện tích nhiễm 462,5 ha.
- Cây bắp: Bệnh sâu keo mùa thu gây hại trên bắp có thể gây thiệt hại thu nhập lớn cho nông dân trồng bắp, diện tích bị hại 2.182 ha. Cơ quan chuyên môn đã hướng dẫn các địa phương biện pháp điều tra phát hiện và hướng dẫn nông dân phòng trừ đối tượng này.
- Cây thanh long: Do thời tiết mưa, độ ẩm cao diện tích nhiễm bệnh đốm nâu trong kỳ tăng 4.420 ha, cao điểm tập trung ở tháng 8 và tháng 9, giảm 1.992 ha so cùng kỳ; Thối cành, quả vi khuẩn có diện tích nhiễm 1.038 ha, tăng 442 ha so cùng kỳ; Bệnh thán thư cành, quả có diện tích nhiễm 1.199 ha, giảm 400 ha so cùng kỳ.
- Cây tiêu: Bệnh thán thư, bệnh chết nhanh, diện tích nhiễm hiện còn 20 ha, giảm 1.234 ha so cùng kỳ phân bố tại huyện Tánh Linh.
- Cây điều: Diện tích nhiễm thán thư, và bọ xít muỗi, đục chồi, đục thần là 547 ha, giảm so cùng kỳ phân bổ yếu ở Phan Thiết, La Gi, Tánh Linh, Hàm Tân.
* Tình hình tưới vụ Hè thu 2019:
Kết quả cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp 9 tháng đầu 2019 cụ thể như sau:
- Cấp nước sản xuất vụ Đông Xuân 2018-2019 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh 49.116 ha/50.209 ha Kế hoạch, đạt 97,82%; trong đó diện tích lúa, hoa màu 30.266 ha, diện tích Thanh long + Nho: 18.850 ha.
- Cấp nước sản xuất vụ Hè Thu 2019 thực hiện 46.610 ha/51.967 ha kế hoạch đạt 89,69%. Trong đó: Diện tích lúa, hoa màu 26.921; Diện tích Thanh long + Nho 19.689 ha.
- Cấp nước sản xuất vụ Mùa 2019: tính đến ngày 13/9/2019, tổng diện tích gieo trồng vụ Mùa 2019 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh là 33.700 ha/49.831 ha Kế hoạch, đạt 67,63%, trong đó: cây lúa và cây màu 14.011 ha; cây thanh long và cây lâu năm khác 19.689 ha.
- Tình hình nguồn nước, đến ngày 11/9/2019, dung tích hữu ích hiện tại trên 17 hồ đập của tỉnh 86,98 triệu m3/ 259 m3(33,6%), thấp hơn 9 triệu m3 so cùng kỳ; Hồ chứa Đại Ninh 23,3 triệu m3/251 m3 (9,3%), cao hơn 13 triệu m3 so cùng kỳ; Hàm thuận- Đa Mi: 305,86 triệu m3/522 m3 (58,5%), thấp hơn 184 triệu m3 so cùng kỳ.
2. Chăn nuôi:
Tình hình chăn nuôi tại thời điểm 15/9/2019, số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh như sau:
- Đàn trâu, bò: Có 177.840 con, tăng 2,2% so cùng kỳ (đàn trâu 8.900 con, giảm 0,6%; đàn bò 168.940 con, tăng 2,39%). Nhìn chung, số lượng đàn trâu, đàn bò tiếp tục duy trì và phát triển, không có bệnh dịch xảy ra.
- Đàn lợn: Giảm do ảnh hưởng bởi dịch tả lợn Châu phi, đàn lợn hiện có 218.500 con, giảm 15,01% so cùng kỳ. Các doanh nghiệp, trang trại chăn nuôi lớn đang phát triển với khuynh hướng ổn định tổng đàn; các hộ chăn nuôi số lượng đàn giảm đi đáng kể, nhiều hộ trong chăn nuôi trong vùng dịch ở Đức Linh, Tánh Linh, La Gi, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc và Phan Thiết bị thua lỗ nặng,… nên tổng đàn lợn trên địa bàn tỉnh trong điều kiện dịch bệnh giảm thấp hơn so các tỉnh khác trên cả nước.
- Đàn gia cầm: Giá đầu ra ổn định, tình hình dịch bệnh không xảy ra nên đàn gia cầm phát triển khá thuận lợi. Toàn tỉnh có 3.340 ngàn con, tăng 7,7% so cùng kỳ.
* Công tác phòng, chống dịch:
Tình hình dịch tả lợn Châu phi vẫn đang diễn biến rất phức tạp, lây lan nhanh và chưa có dấu hiệu dừng lại, gây thiệt hại nghiêm trọng. Tính đến hết ngày 11/9/2019, toàn tỉnh có 40 xã, phường, thị trấn/6 huyện, thị xã, thành phố công bố dịch bệnh dịch tả lợn Châu phi; đã tiêu hủy 35.807 con lợn mắc bệnh của 1.644 hộ với tổng trọng lượng 2.285 tấn. Cụ thể như sau:
- Thị xã La Gi: Trên địa bàn các phường Phước Lộc, Phước Hội, xã Tân Bình, xã Tân Phước không phát sinh ổ dịch mới. Lũy kế đến 11/9/2019 có 464 con lợn bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 21,5 tấn.
- Huyện Hàm Thuận Bắc: Trên địa bàn thị trấn Ma Lâm không phát sinh ổ dịch mới. Lũy kế đến ngày 08/9/2019 có 132 con lợn bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 4 tấn.
- Huyện Đức Linh: từ ngày 09/9 đến hết ngày 11/9/2019 trên địa bàn các xã Mê Pu, Nam Chính và thị trấn Đức Tài phát sinh thêm 8 hộ có lợn bị nhiễm bệnh Dịch tả lợn Châu Phi, đã tiến hành tiêu hủy 37 con/8 hộ; riêng các xã Đức Chính, Đức Tín, Đông Hà, Sùng Nhơn, Đa Kai, Đức Hạnh, Vũ Hòa, Tân Hà, và thị trấn Võ Xu không phát sinh ổ dịch mới. Lũy kết đến ngày 11/9/2019 có 30.310 con bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 1.965 tấn.
- Huyện Tánh Linh: bệnh dịch tả lợn Châu Phi diễn biến phức tạp, đến ngày 11/9/2019 đã có 12/14 xã, thị trấn có lợn chết do bệnh Dịch tả lợn Châu Phi; từ ngày 9/9/2019 đến hết ngày 11/9/2019 trên địa bàn huyện đã tiến hành tiêu hủy thêm 256 con/39 hộ. Lũy kế đến ngày 11/9/2019 có 4.589 con bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 280,1 tấn.
- Huyện Hàm Tân: trên địa bàn các xã Tân Đức, thị trấn Tân Minh và thị trấn Tân Nghĩa không phát sinh ổ dịch mới; xã Sông Phan đã qua 33 ngày không phát sinh ổ dịch mới (08/8 – 11/9/2019); xã Tân Hà và Sơn Mỹ phát sinh thêm 02 hộ, tổng số lợn tiêu hủy là 38 con; riêng mẫu lấy tại xã Thắng Hải có kết quả xét nghiệm dương tính với bệnh Dịch tả lợn Châu Phi. Lũy kế đến ngày 11/9/2019 có 152 con lợn bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 5,5 tấn.
- Thành phố Phan Thiết: trên địa bàn xã Tiến Lợi không phát sinh ổ dịch mới; phường Phú Tài đã qua 33 ngày không phát sinh ổ dịch mới (08/8 – 11/9/2019); riêng xã Phong Nẫm đã tiên hủy 64 con lợn tại một hộ chăn nuôi nhỏ lẻ có kết quả dương tính với bệnh Dịch tả lợn Châu Phi. Lũy kế đến ngày 19/8/2019 có 160 con lợn bị tiêu hủy, tổng trọng lượng 9,1 tấn.
Toàn tỉnh đã thành lập 62 chốt kiểm dịch tạm thời để kiểm soát việc vận chuyển gia súc, gia cầm nhất là lợn ra vào tỉnh; ra vào vùng dịch, vùng uy hiếp theo quyết định công bố dịch của các địa phương. Các địa phương tiếp tục tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về các nguyên nhân lây lan, biện pháp phòng ngừa, phát tờ rơi về hướng dẫn phòng chống dịch,... để tất cả người dân đều nắm bắt diễn biến, tình hình dịch bệnh, biện pháp phòng tránh dịch bệnh trong vùng dịch.
- Công tác tiêm phòng: Trong tháng các địa phương trên toàn tỉnh đã tổ chức tiêm phòng 1.415.962 liều vắc xin, trong đó đàn trâu, bò 3.632 liều; đàn heo 46.385 liều; đàn gia cầm 1.365.050 liều. Lũy kế 9 tháng đạt 8.005.600 liều, trong đó đàn trâu, bò 107.917 liều; đàn heo 541.708 liều; đàn gia cầm 7.384.548 liều.
- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 146.658 con heo; 651 con trâu, bò; 451.509 con gia cầm; không kiểm dịch con dê. Lũy kế 9 tháng kiểm dịch 1.077.121 con heo; 18.950 con trâu, bò; 3.552.431 con gia cầm; 11.072 con dê.
3. Lâm nghiệp:
- Trong tháng, diện tích rừng trồng mới ước đạt 550 ha, giảm 1,4% so cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng ước đạt 3.401 ha, tăng 1,6% so cùng kỳ.
- Giao khoán bảo vệ rừng: Đã thực hiện 128.536 ha, đạt 106,2% kế hoạch. Khoanh nuôi tái sinh rừng đã thực hiện chuyển tiếp 5.710 ha, đạt 100% kế hoạch. Trồng cây phân tán 250 ha theo kế hoạch chưa thực hiện.
- Công tác bảo vệ rừng được tăng cường, ngăn chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh với các tỉnh, làm tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng tại những vùng trọng điểm giáp ranh và nội tỉnh, đã xây dựng đường băng cản lửa; 6 chòi canh lửa kiên cố; trang bị 166 máy móc thiết bị và 3.315 công cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huấn cháy khẩn cấp xảy ra, bên cạnh đó thành lập 120 ban chỉ huy phòng chống cháy rừng các cấp. Cộng đồng bảo vệ rừng: có 93 xã có kiểm lâm phụ trách, có 118 thôn xây dựng hương ước bảo vệ rừng. Ngoài ra các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng, không gây cháy hoặc phát hiện cháy phải báo ngay cho trạm bảo vệ rừng gần nhất.
Trong tháng không xảy ra cháy rừng, lũy kế 9 tháng có 15 trường hợp cháy thực bì dưới tán rừng với diện tích 23,74 ha, giảm 14 trường hợp so cùng kỳ; các vụ cháy chủ yếu cháy trảng cỏ, cây bụi, lá khô dưới tán rừng được huy động chữa cháy kịp thời nên không gây hại về tài nguyên rừng.
- Vi phạm lâm luật: Trong tháng (từ ngày 01-10/9/2019) đã phát hiện 22 vụ vi phạm lâm luật, khai thác gỗ và lâm sản khác 4 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 5 vụ, vi phạm khác 9 vụ. Lũy kế 9 tháng có 268 vụ, trong đó khai thác gỗ và lâm sản khác 76 vụ; mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 65 vụ, phá rừng trái phép 19 vụ, vi phạm quy định về sử dụng đất lâm nghiệp 1 vụ, vi phạm khác 104 vụ, vi phạm về chế biến gỗ và lâm sản khác 1 vụ. Luỹ kế 9 tháng (đến ngày 10/9/2019) đã xử lý hành chính 243 vụ, lâm sản tịch thu 289,7 m3, nộp ngân sách 1,92 tỷ đồng.
4. Thuỷ sản:
- Trong tháng 9, sản lượng thủy sản ước đạt 26.276,9 tấn, tăng 1,07% so cùng kỳ; luỹ kế 9 tháng đạt 176.170,8 tấn, tăng 1,04% so cùng kỳ và đạt 78,85% so kế hoạch năm. Trong đó:
+ Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản luỹ kế 9 tháng ước đạt 2.192,8 ha, tăng 2,02% so cùng kỳ. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 9 ước đạt 1.196,2 tấn, tăng 0,03% so cùng kỳ; lũy kế 9 tháng ước đạt 10.493,2 tấn, tăng 1,99% (tăng 204,4 tấn) so cùng kỳ năm trước.
+ Khai thác thuỷ sản: Tình hình ngư trường thuận lợi cho việc khai thác. Sau ảnh hưởng áp thấp, bão, ngư dân tiếp tục ra khơi bám biển, sản lượng thủy sản khai thác trong tháng 9 ước đạt 25.080,4 tấn tăng 1,12% so cùng kỳ; luỹ kế 9 tháng ước đạt 165.677,6 tấn, tăng 0,98% so cùng kỳ (trong đó khai thác biển đạt 165.203,4 tấn, tăng 0,98% so cùng kỳ, khai thác nội địa đạt 474,2 tấn, tăng 1,79% so cùng kỳ).
- Sản xuất giống thuỷ sản: Sản lượng giống sản xuất chủ yếu là tôm giống, trong tháng 9 ước đạt 2,16 tỷ con tăng 0,56% so cùng kỳ; lũy kế 9 tháng ước đạt 18,176 tỷ con, giảm 2,37% so cùng kỳ và đạt 75,73% kế hoạch. Công tác quản lý về nguồn gốc tôm, giám sát con giống luôn được tăng cường.
- Hiện nay tiến độ xây dựng nông thôn mới bình quân toàn tỉnh đạt 14,08 tiêu chí, tăng 0,34 tiêu chí/xã so với đầu năm, đạt 19,3% kế hoạch năm 2019. Đến nay, toàn tỉnh có 58/96 xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới, đạt 60,4%.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản luôn được tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm khi sử dụng các biện pháp khai thác mang tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản như giã cào, mắt lưới nhỏ so quy định, xung điện, chất nổ,... Số vụ vi phạm trong tháng (từ ngày 01- 10/9/2019) là 3 vụ. Trong đó: Tàng trữ ngư cụ cấm sử dụng 3 vụ. Lũy kế 9 tháng tổng số vụ vi phạm là 340 vụ: không có sổ nhật ký khai thác 2 vụ, sử dụng tàu cá không đăng ký lại 19 vụ, không có giấy phép thủy sản 17 vụ, không mang theo giấy chứng nhận an toàn tàu cá 17 vụ, hành nghề lặn trái phép 42 vụ, không bằng máy thuyền trưởng 15 vụ, trang bị cứu sinh không đầy đủ 3 vụ, sử dụng mắc lưới nhỏ hơn quy định 25 vụ, tàu không có hoạt động giám sát 1 vụ, sử dụng công cụ kích điện trên tàu cá 21 vụ, không đăng ký lại tàu cá 67 vụ, giã cào đáy sai vùng khai thác 24 vụ, khai thác sò lông nhỏ hơn quy định 24 vụ, tàng trữ công cụ kích điện trên tàu cá 15 vụ, không ghi nhật ký khai thác thủy sản 9 vụ, sử dụng ngư cụ cấm 11 vụ, ghi không đầy đủ nhật ký khai thác thủy sản 7 vụ.
- Thực hiện Chỉ thị số 45/CT-TTg, ngày 13/12/2017 của Thủ tướng Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách để khắc phục cảnh báo của Ủy ban Châu Âu về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định và Chỉ thị số 30-CT/TU của Tỉnh ủy Bình Thuận; trong 9 tháng có 05 vụ vi phạm với 6 tàu cá/40 thuyền viên bị nước ngoài bắt giữ.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; Xây dựng, Tài nguyên và Môi trường
1. Công nghiệp:
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 9 ước tăng 32,59% so cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 1,98%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,66%; sản xuất và phân phối điện tăng 46,12%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,39%. Lũy kế 9 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,60% so cùng kỳ năm trước, cao hơn so với mức tăng 20,15% của cùng kỳ năm 2018. Trong đó, chỉ số ngành sản xuất và phân phối điện đạt tốc độ tăng trưởng 34,17%, đây là mức tăng trưởng cao, nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng tăng mới từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 2, Vĩnh Tân 4, điện mặt trời (hiện nay trên địa bàn toàn tỉnh có 21 dự án điện năng lượng mặt trời đã đi vào hoạt động với tổng công suất 903,48MW; ngành khai khoáng tăng 3,18%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,73%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,80% so cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) trong 9 tháng ước đạt 21.676,0 tỷ đồng, đạt 76,16% kế hoạch, tăng 13,05% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp khai khoáng 434,4 tỷ đồng (tăng 6,15%); công nghiệp chế biến chế tạo 12.214,5 tỷ đồng (tăng 4,67%); sản xuất và phân phối điện đạt 8.815,6 tỷ đồng (tăng 28,03%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 211,4 tỷ đồng (tăng 1,28%).
Các sản phẩm sản xuất trong 9 tháng tăng so cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại (tăng 4,55%), đá khai thác (tăng 6,54%), thủy sản đông lạnh (tăng 9,82%), hạt điều nhân (tăng 3,65%), nước khoáng (tăng 6,83%), quần áo may sẵn (tăng 5,98%), gạch các loại (tăng 1,57%), nước máy sản xuất (tăng 2,22%), điện (tăng 30,07%), sơ chế mũ cao su (tăng 6,78%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (tăng 3,54%), thức ăn gia súc (tăng 7,40%), giày dép các loại (tăng 1,44%). Sản phẩm giảm gồm: Muối hạt (giảm 20,97%), thủy sản khô (giảm 0,82%), nước mắm (giảm 2,43% so cùng kỳ năm trước).Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp trong 9 tháng tiếp tục ổn định, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,60% so cùng kỳ năm trước, trong đó nổi bật là ngành sản xuất và phân phối điện đạt tốc độ tăng trưởng 34,17%. Chỉ số sản xuất ngành khai khoáng; ngành cung cấp nước, quản lý - xử lý rác thải, nước thải và ngành công nghiệp chế biến chế tạo đều tăng so cùng kỳ; một số sản phẩm như: Thủy sản đông lạnh, nước khoáng, quần áo may sẵn, sơ chế mủ cao su, thức ăn gia súc tăng khá. Dự báo trong quý IV, các ngành ngành khai khoáng; ngành cung cấp nước, quản lý - xử lý rác thải, nước thải và ngành công nghiệp chế biến chế tạo sẽ tiếp tục ổn định; riêng ngành xuất và phân phối điện, các nhà máy thủy điện, nhiệt điện và điện năng lượng mặt trời hoạt động ổn định, vì vậy giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp dự báo sẽ tiếp tục duy trì nhịp độ tăng trưởng khá.

2. Đầu tư phát triển:
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện trong 9 tháng (theo giá hiện hành) ước đạt 21.777,5 tỷ đồng, tăng 34,33% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn khu vực Nhà nước đạt 2.642,3 tỷ đồng, chiếm 12,13% tổng vốn, tăng 10,75% so cùng kỳ năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 16.531,9 tỷ đồng, chiếm 75,91%, tăng 32,83%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.603,3 tỷ đồng, chiếm 11,96% tổng vốn, tăng 88,62% so cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trong 9 tháng ước đạt 1.982,1 tỷ đồng, tăng 15,58% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện 1.543,6 tỷ đồng, tăng 22,49% so cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 383,2 tỷ đồng, giảm 2,99% và vốn ngân sách nhà nước cấp xã 55,3 tỷ đồng, giảm 7,48% so cùng kỳ năm trước.
Từ đầu năm đến ngày 13/9/2019), đã tiếp nhận 3.315 hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, trong đó đăng ký thành lập mới 616 doanh nghiệp (tăng 29,14% so cùng kỳ) và 331 đơn vị trực thuộc, tổng vốn đăng ký mới là 7.800 tỷ đồng (giảm 23,26% so cùng kỳ năm trước); Đã giải thể 67 doanh nghiệp (giảm 2,89% so cùng kỳ); Thông báo tạm ngừng 97 doanh nghiệp (tăng 14,11% so cùng kỳ).
Tổng số dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/giấy chứng nhận đầu tư từ đầu năm đến ngày 13/9/2019 là 100 dự án (trong đó, cấp mới 68 dự án, giảm 25 dự án so với cùng kỳ năm trước), với tổng diện tích đất 529 ha, tổng vốn đăng ký 10.894 tỷ đồng, bằng 33,6 % so với cùng kỳ năm trước. Việc rà soát, tháo gỡ khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp để thúc đẩy tiến độ triển khai của các dự án có nguồn vốn ngoài ngân sách luôn được quan tâm, có thêm 19 dự án khởi công xây dựng (cùng kỳ năm trước có 7 dự án), có thêm 33 dự án đi vào hoạt động kinh doanh (cùng kỳ năm trước có 3 dự án); đồng thời, qua rà soát đã thu hồi 12 dự án chậm triển khai (cùng kỳ năm trước thu hồi 15 dự án).
Công tác quản lý đô thị, trật tự xây dựng luôn được quan tâm chỉ đạo. Tiến hành lập Quy hoạch tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Hoàn chỉnh, phê duyệt: Đồ án Quy hoạch chung thị xã La Gi đến năm 2035; Đồ án Quy hoạch chung Phan Rí Cửa đến năm 2035; Kế hoạch triển khai thực hiện theo Quy hoạch chung đô thị mới Vĩnh Tân đến năm 2040. Rà soát, điều chỉnh các đồ án quy hoạch xây dựng khu vực ven biển, các đồ án quy hoạch liên quan đến phương án sử dụng đất hai bên đường ĐT.719B; lập quy hoạch phân khu các tuyến đường vào sân bay Phan Thiết, đường từ Km1717+640 Quốc lộ 1 đến đường ĐT.719.
Đẩy mạnh tiến độ thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng dự án đường cao tốc Bắc – Nam đoạn qua địa bàn tỉnh (đến nay đã kiểm kê hồ sơ đạt 97%, xét pháp lý cấp xã đạt 93%, xét pháp lý cấp huyện đạt 88%, giải ngân đạt 30%).
Hoàn thành công tác thống kê đất đai năm 2018. Cơ bản hoàn thành điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất cấp huyện. Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh cấp được 4.735 ha, đạt 94,4% kế hoạch (trong đó: tổ chức 1.576 ha, đạt 315,3% kế hoạch; hộ gia đình cá nhân 3.159 ha, đạt 69,9% kế hoạch). Công tác quản lý nhà nước về khoáng sản được tăng cường, đôn đốc các chủ dự án mỏ khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục theo quy định để đi vào khai thác.
Tình hình môi trường tại Trung tâm Điện lực Vĩnh Tân, Cụm công nghiệp chế biến hải sản Phú Hài đã tương đối ổn định. Đã có 10/10 huyện, thị xã, thành phố hoàn thành việc di dời các điểm thu mua, tập kết phế liệu ra khỏi khu dân cư hoặc đã chấm dứt hoạt động, chuyển đổi nghề nghiệp. Công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành về đất đai, môi trường, khoáng sản được quan tâm.
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9 ước đạt 4.979,5 tỷ đồng, tăng 0,81% so tháng trước và tăng 9,48% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước đạt 42.555,3 tỷ đồng, tăng 12,4% so cùng kỳ năm trước. Chia ra:
+ Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 9 ước đạt 3.284,8 tỷ đồng, tăng 0,77% so tháng trước và tăng 9,5% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 9 tháng ước đạt 28.224,9 tỷ đồng, tăng 12,08% so cùng kỳ năm trước;
+ Doanh thu dịch vụ tháng 9 ước đạt 542,8 tỷ đồng, tăng 0,93% so tháng trước và tăng 10,76% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 9 tháng ước đạt 4.622,1 tỷ đồng, tăng 12,34% so cùng kỳ năm trước.
+ Doanh thu lưu trú - ăn uống tháng 9 ước đạt 1.151,9 tỷ đồng, tăng 0,87% so tháng trước và tăng 8,83% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 9 tháng ước đạt 9.708,3 tỷ đồng, tăng 13,38% so cùng kỳ năm trước.
Trong quý 3 tình hình thương mại trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng trở lại. Tuy trong quý 3 có biến động về giá xăng dầu nhưng nhìn chung tình hình lưu thông hàng hóa trong quý vẫn tương đối ổn định, không có đột biến về giá, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, sốt giá... Ngoài ra công tác kích cầu tiêu dùng được tăng cường, các siêu thị giảm giá nhiều mặt hàng như các mặt hàng thực phẩm, quần áo may sẵn, đồ gia dụng..., các cửa hàng điện máy tăng cường khuyến mãi các mặt hàng tivi trong mùa bóng đá và nhiều mặt hàng điện máy khác khuyến mãi theo chương trình khuyến mãi mùa hè.
Nhìn chung, qua 9 tháng hoạt động thương mại dịch vụ khá sôi động, công tác quản lý điều hành bảo đảm cân đối cung cầu, bình ổn giá cả trên thị trường được các cấp, các ngành chỉ đạo kịp thời, hiệu quả. Bên cạnh đó công tác khuyến khích, động viên, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh hàng hóa Việt Nam có chất lượng, giá cả hợp lý luôn được quan tâm; tăng cường tổ chức mạng lưới bán hàng tại các huyện, thành phố; kết nối giữa nhà sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tổ chức tốt các hội chợ, lễ hội, khai trương trung tâm thương mại đầu tiên với phương thức bán hàng đa dạng, phong phú,… đã góp phần đẩy mạnh hoạt động thương mại trên địa bàn tỉnh, kích thích sức mua của người tiêu dùng.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 so tháng trước tăng 1,0%. So với tháng cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 2,43%; Bình quân 9 tháng tăng 2,07% (bình quân 9 tháng năm 2019 so bình quân 9 tháng năm 2018). So với tháng 12/2018 (sau 9 tháng) tăng 2,01%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,6%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,41%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 1,39%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 1,51%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,9%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,84%; giao thông tăng 1,9%; bưu chính viễn thông giảm 0,09%; giáo dục tăng 5,86%; văn hoá giải trí và du lịch tăng 0,94%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 2,85%.
2. Du lịch:
Dự ước trong tháng 9 các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 555,4 ngàn lượt khách, tăng 1,12% so tháng trước và tăng 7,53% so tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách phục vụ đạt 952,5 ngàn ngày khách tăng 1,24% so tháng trước và tăng 7,99% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng ước đạt 4.573,2 ngàn lượt khách, tăng 12,38% so cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 7.605,1 ngàn ngày khách, tăng 13,7% so cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch tháng 9 ước đạt 1.268,1 tỷ đồng, tăng 0,53% so tháng trước và tăng 18,3% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng ước đạt 11.234,9 tỷ đồng, tăng 18,11% so cùng kỳ năm trước.
Số lượt khách quốc tế tháng 9 ước đạt 62,3 ngàn lượt khách, tăng 0,65% so tháng trước và tăng 8,77% so tháng cùng kỳ năm trước. Số ngày khách quốc tế lưu trú ước đạt 189,8 ngàn ngày, tăng 0,87% so tháng trước và tăng 8,09% so tháng cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng, số lượt khách quốc tế ước đạt 560,9 ngàn lượt khách tăng 12,31% so cùng kỳ; số ngày khách quốc tế ước đạt 1.698,8 ngàn lượt khách tăng 13,15% so cùng kỳ.
Trong tháng, tỷ lệ khách Trung Quốc cao nhất, chiếm 35,82%; Hàn Quốc chiếm 21,01%; Nga chiếm 12,13%; Hà Lan chiếm 4,54%; Thái Lan 2,9%; Pháp chiếm 2,64%.
Nhìn chung, hoạt động du lịch trong 9 tháng qua có nhiều khởi sắc, các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch trong và ngoài nước được triển khai xây dựng cơ chế thu hút phát triển du lịch trọng điểm, đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư lớn đăng ký trên lĩnh vực du lịch. Tình hình, vệ sinh an toàn thực phẩm, an ninh trật tự ở các khu, tuyến, điểm du lịch trọng điểm của tỉnh cơ bản được bảo đảm; chất lượng phục vụ du khách được các đơn vị kinh doanh du lịch quan tâm, chú trọng hơn trước.
3. Xuất, nhập khẩu:
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 9 ước đạt 43,7 triệu USD, tăng 9,94% so tháng trước và tăng 8,99% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng ước đạt 339,8 triệu USD, tăng 6,4% so cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng thuỷ sản đạt 101,7 triệu USD, giảm 5,54%; hàng nông sản đạt 7,64 triệu USD, giảm 5,15%; hàng hoá khác 230,5 triệu USD, tăng 13,17% (trong đó, hàng may mặc 145,3 triệu USD, tăng 14,51%). Với lượng mặt hàng cao su 848,9 tấn, giảm 8,77% so cùng kỳ; quả thanh long 4.423,2 tấn, tăng 9,85%; hải sản các loại 12.451,6 tấn, giảm 3,14%.
- Xuất khẩu dịch vụ du lịch tháng 9 ước đạt 22,97 triệu USD, tăng 0,5% so tháng trước và tăng 14,66% so cùng tháng năm trước. Luỹ kế 9 tháng ước đạt 205,82 triệu USD, tăng 16,25% so cùng kỳ năm trước.
- Nhập khẩu 9 tháng ước đạt 511,5 triệu USD tăng 31,8% so cùng kỳ năm trước. Tăng chủ yếu các công ty sản xuất điện nhập khẩu máy móc thiết bị ngành điện.
Nhìn chung, nhóm hàng thủy sản xuất khẩu giảm hơn so với cùng kỳ. Do yêu cầu chất lượng của khách hàng ngày càng cao, bên cạnh đó nguồn nguyên liệu không đảm bảo nên không đáp ứng được đơn hàng. Nhóm hàng nông sản giảm, trong đó mặt hàng cao su giá bán đang thấp và không có đơn hàng dẫn đến kim ngạch giảm; mặt hàng thanh long giảm do yêu cầu chất lượng ngày càng cao nhưng sản phẩm không đủ nên không đáp ứng được đơn hàng.
4. Giao thông vận tải:
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 9 đã vận chuyển 2.230,47 nghìn hành khách và luân chuyển 112,44 triệu hk.km. Luỹ kế 9 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 19.664,31 nghìn hành khách, tăng 8,92% so cùng kỳ và luân chuyển 987,0 triệu hk.km, tăng 9,90% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 9 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 2.212,99 nghìn hành khách, luỹ kế 9 tháng đạt 19.508,31 nghìn hành khách, tăng 8,89% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách đường thủy đạt 17,48 nghìn hành khách, luỹ kế 9 tháng đạt 156,0 nghìn hành khách, tăng 11,76% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường bộ đạt 110,54 triệu hk.km, luỹ kế 9 tháng đạt 969,53 triệu hk.km, tăng 9,86% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1,90 triệu hk.km, luỹ kế 9 tháng đạt 17,47 triệu hk.km, tăng 12,15% so cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 9 vận chuyển hàng hoá đạt 861,81 nghìn tấn và luân chuyển hàng hóa đạt 47,98 triệu tấn.km. Luỹ kế 9 tháng đã vận chuyển 7.567,93 nghìn tấn hàng hoá, tăng 11,65% so cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 420,12 triệu tấn.km, tăng 10,97% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 9 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 861,0 nghìn tấn, luỹ kế 9 tháng đạt 7.560,87 nghìn tấn, tăng 11,65% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,81 nghìn tấn, luỹ kế 9 tháng đạt 7,06 nghìn tấn, tăng 8,16% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 47,89 triệu tấn.km, luỹ kế 9 tháng đạt 419,31 triệu tấn.km, tăng 10,97% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,09 triệu tấn.km, luỹ kế 9 tháng đạt 0,81 triệu tấn.km, tăng 8,89% so cùng kỳ năm trước.
- Cảng tổng hợp Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp tháng 9 ước đạt 27.943 tấn, lũy kế 9 tháng đạt 171.923 tấn. Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng là quặng lmeninte, cát xây dựng, tro bay. Doanh thu tháng 9 ước 1,5 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng đạt 8,544 tỷ đồng.
- Ước doanh thu hoạt động vận tải toàn ngành trong tháng 9 đạt 204,15 tỷ đồng; luỹ kế 9 tháng ước đạt 1.782,30 tỷ đồng, tăng 11,9% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, trong 9 tháng, công tác bảo đảm giao thông, lưu thông đi lại được thực hiện tốt. Vận tải đường bộ, đường biển ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân. Công tác tuần tra, kiểm soát được duy trì thường xuyên nhằm kiểm tra, xử lý tình trạng xe quá khổ, quá tải, các phương tiện chở quá số người quy định,… qua đó chấn chỉnh và nâng cao chất lượng của hoạt động vận tải.
IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu ngân sách:
Ước thu ngân sách tháng 9 đạt 600 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đạt 9.772,1 tỷ đồng, đạt 104,18% dự toán năm, tăng 25,27% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 6.780,5 tỷ đồng, đạt 107,97% dự toán năm, tăng 25,41% so cùng kỳ. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 5.674,5 tỷ đồng, đạt 104,78% dự toán năm, tăng 32,85%; thu tiền nhà, đất 1.106,1 tỷ đồng, đạt 127,94% dự toán năm, giảm 2,59% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 811,1 tỷ đồng, đạt 115,87% dự toán năm, giảm 11,82%); thu dầu thô 1.353,7 tỷ đồng, đạt 84,61% dự toán năm, giảm 3,37% và thu thuế xuất nhập khẩu 1.637,9 tỷ đồng, đạt 109,19% dự toán năm, tăng 64,86% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu qua 9 tháng tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.149,0 tỷ đồng (tăng 6,78%); thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 823,7 tỷ đồng (tăng 66,33%); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 1.141,1 tỷ đồng (tăng 45,05%); thuế thu nhập cá nhân 485,5 tỷ đồng (tăng 27,22%); thuế bảo vệ môi trường 435,0 tỷ đồng (tăng 38,54%); lệ phí trước bạ 324,7 tỷ đồng (tăng 60,81%); thu từ các loại phí, lệ phí 122,7 tỷ đồng (tăng 19,35%); thu khác ngân sách 283,2 tỷ đồng (tăng 71,62%); thu xổ số kiến thiết 781,9 tỷ đồng (tăng 21,56%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 117,1 tỷ đồng (tăng 46,15%); thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 281,0 tỷ đồng (tăng 38,48%); thu tiền sử dụng đất 811,1 tỷ đồng (giảm 11,82%); thu từ dầu thô 1.353,7 tỷ đồng (giảm 3,37%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.637,9 tỷ đồng (tăng 64,86%).
Ở khối huyện, thị xã, thành phố; ước thu ngân sách tháng 9 đạt 214,0 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng đạt 2.923,0 tỷ đồng, đạt 127,64% dự toán năm, tăng 36,9% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Phan Thiết thu 1.520,6 tỷ đồng (tăng 59,77% so cùng kỳ năm trước); La Gi: 206,8 tỷ đồng (tăng 47,01%); Tuy Phong: 191,2 tỷ đồng (giảm 6,60%); Bắc Bình: 168,5 tỷ đồng (tăng 64,08%); Hàm Thuận Bắc: 346,0 tỷ đồng (tăng 11,13%); Hàm Thuận Nam: 188,0 tỷ đồng (tăng 31,29%); Tánh Linh: 71,7 tỷ đồng (giảm 8,0%); Đức Linh: 87,8 tỷ đồng (giảm 7,4%); Hàm Tân: 118,4 tỷ đồng (tăng 56,13%) và Phú Quý thu 24,0 tỷ đồng (giảm 25,7%). Như vậy đến nay đã có 7/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách đã vượt so dự toán năm (trừ Tuy Phong, Tánh Linh, Đức Linh); có 6/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách tăng so cùng kỳ (Phan Thiết, La Gi, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân).

2. Chi ngân sách:
Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện 6.696 tỷ đồng, đạt 70,3% dự toán cả năm, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chi cân đối ngân sách là 5.826 tỷ đồng (đạt 70,2% dự toán năm, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước); chi Chương trình mục tiêu quốc gia, Chương trình mục tiêu một số nhiệm vụ Trung ương giao là 870 tỷ đồng (đạt 70,5% dự toán năm, tăng 72,1% so với cùng kỳ năm trước).
3. Hoạt động tín dụng:
- Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định; Các Tổ chức tín dụng tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng an toàn và có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu; tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho khách hàng khi gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh; chủ động rà soát, hỗ trợ khách hàng vay vốn bị thiệt hại do ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi; tích cực hỗ trợ doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất tiếp cận nguồn vốn vay để tổ chức sản xuất, làm dịch vụ thực hiện theo Chương trình mỗi xã một sản phẩm tỉnh Bình Thuận năm 2019 – 2020; thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền cơ chế, chính sách đến doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển mạng lưới ATM và POS…
- Tình hình thực hiện lãi suất: Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so với đầu năm. Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,5-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,5-6,5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6,6-7,3%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 6-7,5%/năm, các lĩnh vực khác từ 9-10%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10-11,5%/năm.
- Hoạt động huy động vốn: Được tiếp tục đẩy mạnh để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến 31/8/2019, nguồn vốn huy động đạt 38.774 tỷ đồng, tăng 14,18% so đầu năm. Ước đến 30/9/2019, vốn huy động đạt 39.053 tỷ đồng, tăng 15,0% so đầu năm.
- Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Đến 31/8/2019, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 54.164 tỷ đồng, tăng 16,74% so đầu năm. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 53.056 tỷ đồng, chiếm 98% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 29.235 tỷ đồng, chiếm 54% tổng dư nợ. Ước đến 30/9/2019, dư nợ đạt 54.749 tỷ đồng, tăng 18,0% so đầu năm.
- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương; trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 29.961 tỷ đồng, chiếm 55,3% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 540 tỷ đồng, chiếm 1,0% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 12.229 tỷ đồng, chiếm 22,58% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.615 tỷ đồng.
- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 982,8 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ 301,1 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ 669,3 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 12,4 tỷ đồng). Nợ xấu là 11,7 tỷ đồng/4 tàu, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 35,4 tỷ đồng/44 tàu.
- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 384 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, trồng 420 ha thanh long ruột tím hồng theo tiêu chuẩn GlobalGap.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 17 tỷ đồng/43 hộ.
- Chất lượng tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng. Đến 31/8/2019, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn là 362 tỷ đồng, chiếm 0,67% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu giảm 0,14% so đầu năm.
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/8/2019, trên địa bàn có 172 máy ATM, tăng 01 máy so với đầu năm và 1.616 máy POS, tăng 116 máy so với đầu năm, hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng đã thực hiện tốt các quy định về lãi suất huy động ngoại tệ, quy định cho vay bằng ngoại tệ, các quy định về mua bán ngoại tệ; đồng thời thường xuyên theo dõi hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 8 tháng năm 2019 đạt 541,8 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 39,9 triệu USD.
V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội, Khoa học - Công nghệ
1. Hoạt động văn hóa:
- Trong 9 tháng, công tác tuyên truyền phục vụ các ngày Lễ, Tết, kỷ niệm quê hương, đất nước, nhất là phục vụ mừng Đảng, mừng Xuân Kỷ Hợi 2019, các ngày Lễ trong năm, Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; phòng, chống dịch tả lợn Châu Phi; Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam, bầu cử Trưởng thôn, khu phố và Phó trưởng thôn, khu phố nhiệm kỳ 2019-2024, tuyên truyền biển, đảo và công tác biên giới trên đất liền,… với 47.820 giờ phát thanh xe loa, phóng thanh, cắt dán 38.235 băng rôn khẩu hiệu, kẻ vẽ 40.167 m2 pa nô, 35.512 pa nô dọc, treo 35.325 lượt cờ các loại. Phát hành 900 Tập san Thông tin nghiệp vụ. Đội Tuyên truyền lưu động – Trung tâm Văn hóa tỉnh thực hiện 55 buổi văn nghệ tuyên truyền, với kịch bản “Lãi mẹ đẻ lãi con” và chương trình ca múa nhạc mừng Đảng, mừng Xuân tại các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn tỉnh.
- Hoạt động văn nghệ quần chúng: Tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng mừng Đảng, mừng Xuân,... Tham gia liên hoan tuyên truyền lưu động kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh và truyền thống Bộ đội Trường Sơn (19/5/1959-19/5/2019, đạt 01 giải A, 02 giải B tiết mục); “Hội thi Tiếng hát Người Khuyết tật toàn quốc lần thứ II năm 2019 Khu vực miền Trung - Tây Nguyên” tại thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa (đạt giải khuyến khích toàn đoàn và 01 Huy chương Vàng tiết mục) và Ngày hội “Văn hóa, Thể thao và Du lịch đồng bào Chăm lần thứ V năm 2019 tại Phú Yên”.
- Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp: Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh biểu diễn 85/90 buổi phục vụ chính trị (đạt 94% kế hoạch). Thực hiện các Chương trình nghệ thuật “Mừng Đảng, mừng Xuân” 2019; “Công đức Vua Hùng”, “Tên người còn mãi với non sông”, “Sáng mãi màu cờ độc lập”, “Mùa Xuân và Tuổi trẻ”, “Ký ức tháng Tư”, “Hướng về biển đảo quê hương”. Tập luyện chương trình “Sắc màu quê hương”, nhằm chuẩn bị phục vụ Hội nghị xúc tiến đầu tư tỉnh Bình Thuận năm 2019. Tổ chức thành công cuộc thi “Tiếng hát Ngôi sao biển lần thứ II - 2019”,…
- Hoạt động Thư viện: đã cấp mới 825 thẻ bạn đọc (188 thẻ thiếu nhi), phục vụ 34.511 lượt bạn đọc (thiếu nhi 6.984 lượt), luân chuyển 174.235 lượt tài liệu (thiếu nhi 81.271 lượt); Bổ sung 6.514 bản sách; luân chuyển 9.273 bản sách phục vụ cơ sở, phục vụ lưu động 4.060 bản sách.
- Hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá đã đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trải nghiệm quý báu về con người và văn hoá Bình Thuận. Trong tháng 9 đã đón 34.094 lượt khách, trong đó 1.884 lượt khách nước ngoài; luỹ kế 9 tháng, tổng lượt khách tham quan các bảo tàng, Ban Quản lý di tích Tháp Pô Sah Inư Trung tâm Trưng bày Văn hoá Chăm đạt 500 ngàn lượt khách.
- Các Đội chiếu bóng lưu động và các rạp chiếu phim thực hiện 792 buổi chiếu phục vụ chính trị (miền núi 521 buổi, thiếu nhi 271 buổi). Tổ chức tốt các đợt phim mừng Đảng, mừng Xuân Kỷ Hợi 2019, 43 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước, Ngày Quốc tế lao động 1/5; 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tháng hành động vì trẻ em. Phối hợp tổ chức tốt hoạt động đưa văn hóa về cơ sở lần thứ X năm 2019 tại huyện Phú Quý, chủ đề tuyên truyền hướng về biển, đảo, với nhiều hoạt động như: Chương trình nghệ thuật “Hát về biển đảo yêu thương”, phát động lễ ra quân làm sạch môi trường; triển lãm ảnh tư liệu, chiếu phim, luân chuyển sách… thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
2. Thể dục thể thao:
Hoạt động thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, thiết thực góp phần phục vụ nhu cầu rèn luyện thể chất trong nhân dân. Các giải thể thao cấp tỉnh được duy trì với quy mô tổ chức ngày càng chuyên nghiệp, công tác xã hội hóa về thể dục thể thao có bước chuyển biến tiến bộ, phong trào thể dục thể thao phát triển rộng khắp.
- Hoạt động thể thao quần chúng: Hỗ trợ chuyên môn và trọng tài cho Hội thao các Khối thi đua 1, 6, 9 tỉnh Bình Thuận năm 2019. Phối hợp tổ chức giải Bóng đá cụm miền Đông Nam Bộ, đăng cai tổ chức thành công giải Bóng đá hạng Nhì Quốc gia năm 2019,…
- Hoạt động thể thao thành tích cao: Đã tham gia các giải: Judo vô địch quốc tại Đà Nẵng (đạt 02 huy chương vàng, 01 huy chương bạc); Taekwondo vô địch Châu Á tại Thành phố Hồ Chí Minh (đạt 02 huy chương vàng); Karate vô địch Câu lạc bộ toàn quốc tại Đăk Lăk (đạt 01 huy chương bạc, 01 huy chương đồng); quyền Taekwondo Wolrd Cup tại Trung Quốc (đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc); Cờ tướng Cụm miền Đông Nam bộ tại Bình Phước (đạt 01 huy chương vàng, 01 huy chương bạc) và giải Bóng đá Cụm miền Đông Nam bộ (đạt 01 huy chương vàng). Luỹ kế 9 tháng (đến ngày 10/9/2019), tổng số huy chương đạt được 105 huy chương, trong đó: 40 huy chương vàng, 29 huy chương bạc, 36 huy chương đồng...
3. Giáo dục và Đào tạo:
Bước vào năm học mới (năm học mới 2019-2020), một số trường đã đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây mới phòng học đáp ứng nhu cầu về cơ sở vật chất, bảo đảm điều kiện phục vụ dạy và học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Tuyển mới vào lớp 10 công lập có 12.628 học sinh, lớp 10 Dân tộc nội trú 384 học sinh, lớp 10 chuyên là 382 học sinh, lớp tạo nguồn chuyên Trần Hưng Đạo là 21 học sinh.
Về việc huy động trẻ 6 tuổi vào lớp 1 là 24.637/24.693 em, đạt 99,8% (tính đến ngày 06/9/2019) số lượng trường tiểu học tổ chức dạy 02 buổi/ngày có thêm 24 trường (đạt 80% chỉ tiêu được giao), nâng tổng số lên 233/254 trường, đạt tỷ lệ 91,7%; so với năm học trước thì tỷ lệ tăng 11,63%.
Tổng số trường đạt chuẩn quốc gia hiện nay là 225 trường, gồm có 39 trường mầm non, 111 trường tiểu học, 61 trường THCS, 14 trường THPT. Tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia so với số trường công lập là 39,47%/570 trường (trong đó trường mầm non đạt 25,49%/153 trường, trường tiểu học đạt 42,53%/261 trường, trường THCS 46,92%/130 trường, trường THPT đạt 53,85%/26 trường).
4. Y tế:
Tiếp tục triển khai đẩy mạnh các hoạt động chương trình y tế Quốc gia, không có dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Công tác phòng chống các bệnh xã hội, phòng chống HIV/AIDS duy trì đều. Công tác khám chữa bệnh ở các cơ sở nhà nước đáp ứng được nhu cầu phục vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng, chống dịch bệnh, đặc biệt là bệnh tay - chân - miệng ở trẻ em, bệnh sốt xuất huyết, tiêu chảy cấp và các dịch bệnh khác được tiếp tục tăng cường.
Trong 9 tháng (tính đến ngày 11/9) có 3.032 cas mắc sốt xuất huyết (tăng 5,4 lần so cùng kỳ), trong đó có 02 trường hợp tử vong (01 tại huyện Tánh Linh, 01 tại thị xã La Gi); số ca mắc sốt rét 189 cas (tăng 2,6% so cùng kỳ) không có tử vong do sốt rét và không có dịch sốt rét xảy ra trên địa bàn tỉnh; số cas mắc tay chân miệng 289 cas (giảm 0,69% so cùng kỳ), tất cả không có cas tử vong. Các bệnh truyền nhiễm khác như: Cúm, thủy đậu, quai bị, tiêu chảy, số mắc giảm so với cùng kỳ năm 2018; tình hình dịch cúm A H5N1, H7N9, Ebola, Zika đến nay chưa ghi nhận trường hợp mắc nào. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; luỹ kế 9 tháng (tính đến ngày 11/9/2019) xảy ra 04 vụ ngộ độc thực phẩm, không có tử vong.
Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Luỹ kế 9 tháng, ước tổng số lượt bệnh nhân đến khám, chữa 1.989.283 lượt (tăng 1,5% so cùng kỳ), tổng số bệnh điều trị nội trú 134.684 (tăng 1% so cùng kỳ); Công suất sử dụng giường bệnh tại các tuyến đạt kế hoạch đề ra.
- Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng. Trong 8 tháng, toàn tỉnh có 94.017 người tham gia BHXH bắt buộc, đạt 94% kế hoạch và tăng 2,2% so cùng kỳ; có 82.190 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 91,7% kế hoạch và tăng 2,2% so cùng kỳ; Số người tham gia BHXH tự nguyện 2.457 người đạt 73,5% kế hoạch và tăng 319,3% so cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 961.684 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 10.785 người) đạt 95,3% kế hoạch và tăng 3,7% so cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 82,5% dân số. Tổng thu trong 8 tháng được 1.438,4 tỷ đồng, đạt 61,6% kế hoạch, tăng 9% so cùng kỳ năm trước; tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 123,691 tỷ đồng, chiếm 5,32% kế hoạch thu và giảm 1,85% so cùng kỳ năm trước.
5. Khoa học - Công nghệ
Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng. Các chủ trương, chính sách về khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh tiếp tục được hoàn thiện. Đã tuyển chọn được 5 tổ chức, cá nhân chủ trì thực hiện 5 nhiệm vụ khoa học công nghệ cấp tỉnh trong năm 2019; nghiệm thu kết quả thực hiện 5 nhiệm vụ khoa học và công nghệ và bàn giao vào ứng dụng 10 nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Các giải pháp nhằm hỗ trợ thúc đẩy hình thành và phát triển doanh nghiệp khoa học và công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ, hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đã được triển khai thực hiện và đạt được một số kết quả bước đầu. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ - thiết bị đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm lợi thế của tỉnh. Đăng ký chỉ dẫn địa lý thanh long Bình Thuận vào Nhật Bản; Hỗ trợ huyện Phú Quý đăng ký bảo hộ cho 3 sản phẩm đặc trưng của huyện; lựa chọn 3 công trình sáng tạo khoa học và công nghệ của tỉnh để công bố trong Sách vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2019 (kết quả, có 1 công trình được lựa chọn công bố trong Sách vàng Sáng tạo Việt Nam năm 2019). Hoạt động hỗ trợ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp vừa và nhỏ tỉnh Bình Thuận được đẩy mạnh. Các giải pháp nhằm tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 bước đầu đã được các ngành, địa phương triển khai thực hiện.
6. Lao động - Xã hội:
Trong tháng (đến ngày 13/9/2019) đã giải quyết việc làm cho 2.290 lao động, trong đó, vay vốn giải quyết việc làm cho 80 lao động. Luỹ kế 9 tháng (đến ngày 13/9/2019) đã giải quyết cho 19.210 lao động, đạt 80,04% kế hoạch năm và tăng 1,01% so cùng kỳ năm trước, trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm 970 lao động, đạt 80,83% so kế hoạch và tăng 38,57% so cùng kỳ năm trước.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề cho 1.850 người, trong đó đào tạo nghề cho lao động nông thôn là 916 người. Nâng tổng số người tuyển mới đào tạo nghề từ đầu năm đến ngày 13/9/2019 là 9.519 người đạt 86,54% so kế hoạch và tăng 66,42% so cùng kỳ; trong đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn 2.978 người.
Công tác chính sách người có công: Tổ chức đưa 06 Thương binh nặng tiêu biểu dự Gặp mặt biểu dương thương binh nặng tiêu biểu toàn quốc năm 2019 tại thủ đô Hà Nội. Dự Lễ trao Bằng Tổ quốc ghi công cho Liệt sĩ Trương Tại do Bộ Lao động - TB&XH tổ chức tại tỉnh Vĩnh Long. Hướng dẫn các huyện, thị xã, thành phố tổ chức trao tặng, truy tặng Danh hiệu Vinh danh “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” cho 33 Mẹ Việt Nam anh hùng và các thân nhân Mẹ Việt Nam anh hùng nhân kỷ niệm 72 năm ngày Thương binh - Liệt sĩ. Phối hợp các huyện, thị xã, thành phố phân bổ chỉ tiêu và tổ chức đưa 1.074 người có công điều dưỡng tập trung năm 2019 tại 02 tỉnh Lâm Đồng và Bến Tre. Đưa 160 người có công đi tham quan Hà Nội và viếng lăng Bác.
Thực hiện chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 119 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp cho 160 thân nhân thờ cúng liệt sỹ; trợ cấp ƯĐGD cho 76 trường hợp. Cấp dụng cụ chỉnh hình cho 38 trường hợp. Trợ cấp mai táng phí cho 153 trường hợp. Thực hiện chế độ cho các đối tượng khác: Cấp BHYT cho 41 trường hợp; cấp mai táng phí cho 65 trường hợp. Ngoài ra, di chuyển 26 hồ sơ đi tỉnh ngoài và tiếp nhận 45 hồ sơ từ tỉnh ngoài chuyển đến. Thẩm định 53 hồ sơ phong tặng và truy tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam anh hùng và 50 hồ sơ tặng thưởng Huân Chương Độc lập cho gia đình có nhiều liệt sĩ gửi Ban Thi đua Khen thưởng tỉnh tổng hợp trình UBND tỉnh.
Luỹ kế 8 tháng (đến ngày 29/8/2019), đã vận động đóng góp Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được 8,1 tỷ đồng đạt 135,2% so kế hoạch. Quỹ Bảo trợ trẻ em đã vận động được 159 triệu đồng, nâng tổng số tiền vận động đến nay 1.464,2 triệu đồng đạt 73,21% so kế hoạch năm.
Toàn tỉnh có 2.842 người nghiện ma túy; có 107/127 xã, phường, thị trấn có người sử dụng chất ma túy, chiếm 84,25% (tăng 01 xã Hồng Phong - huyện Bắc Bình). Số người đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone đến nay đạt 1.522 người, hiện đang duy trì điều trị 666 người.
7. Hoạt động Bảo hiểm:
- Luỹ kế 8 tháng (đến ngày 31/8/2019), toàn tỉnh có 94.017 người tham gia BHXH bắt buộc, đạt 94% kế hoạch và tăng 2,2% so cùng kỳ; có 82.190 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt 91,7% kế hoạch và tăng 2,2% so cùng kỳ; Số người tham gia BHXH tự nguyện 2.457 người đạt 73,5% kế hoạch và tăng 319,3% so cùng kỳ; Số người tham gia BHYT 961.684 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 10.785 người) đạt 95,3% kế hoạch và tăng 3,7% so cùng kỳ. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 82,5% dân số.
- Luỹ kế 8 tháng (đến ngày 31/8/2019), toàn tỉnh thu được 1.438,4 tỷ đồng, đạt 61,6% kế hoạch, tăng 9% so cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 123,691 tỷ đồng, chiếm 5,32% kế hoạch thu và giảm 1,85% so cùng kỳ năm trước.
- Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch; thực hiện tốt việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, BHTN đảm bảo đầy đủ, kịp thời, an toàn.
8. Tai nạn giao thông:
Trong tháng (từ 15/8/2019 - 14/9/2019), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:
- Số vụ tai nạn giao thông 37 vụ, giảm 6 vụ so tháng trước và so cùng kỳ năm trước tăng 7 vụ. Luỹ kế 9 tháng 324 vụ (trong đó đường sắt 3 vụ), so cùng kỳ năm trước tăng 22 vụ.
- Số người bị thương 28 người, giảm 11 người so tháng trước và tăng 3 người so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng 243 người (trong đó đường sắt 1 người), tăng 25 người so cùng kỳ năm trước.
- Số người chết 17 người, giảm 5 người so tháng trước và tăng 2 người so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 9 tháng 182 người (trong đó đường sắt 5 người), tăng 17 người so cùng kỳ năm trước.
Tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra trên đường bộ, ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông. Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đường sắt đặc biệt nghiêm trọng. Lũy kế 9 tháng xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông đường sắt (1 vụ tại địa bàn huyện hàm Thuận Nam; 1 vụ tại địa bàn huyện Hàm Thuận Bắc; 1 vụ tại địa bàn huyện Tuy Phong) và làm chết 5 người.
9. Thiên tai, cháy nổ:
- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 5 đợt thiên tai do mưa lũ, lốc xoáy làm 1 người chết, tốc mái, hư hỏng 383 căn nhà, sạt lở 46 m đường, 750 m kè biển, 381 ha lúa bị ngập (đang trổ), 300 con gia cầm bị trôi,…; ước thiệt hại 2.297,5 triệu đồng; lũy kế 9 tháng (đến ngày 15/9/2019) có 16 đợt thiên tai, chết 1 người với tổng thiệt hại 4,38 tỷ đồng.
- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 7 vụ cháy, tăng 4 vụ so cùng kỳ và làm bị thương 01 người; nổ không xảy ra. Ước thiệt hại 100 triệu đồng (còn 3 vụ chưa xác định được tài sản thiệt hại). Lũy kế 9 tháng (tính đến ngày 15/9/2019) xảy ra 37 vụ cháy, giảm 12 vụ so cùng kỳ; chết 1 người và gây thiệt hại 2,155 tỷ đồng (giảm 5,5 tỷ so cùng kỳ).
- Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 6 vụ, không tăng giảm vụ so cùng kỳ; đã xử phạt 1.160,9 triệu đồng. Lũy kế 9 tháng đã xảy ra 35 vụ (tăng 5 vụ so cùng kỳ), xử phạt 3.472,2 triệu đồng.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 9 tháng năm 2019 chuyển biến tích cực; nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt khá so cùng kỳ năm trước:
- Sản xuất nông nghiệp có nhiều cố gắng trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, sản lượng khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi được triển khai tích cực, các dịch bệnh được khống chế kịp thời. Công tác quản lý bảo vệ rừng, quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản, xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo. Các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa, chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp tục triển khai thực hiện tốt.
- Kinh tế của tỉnh tiếp tục tăng trưởng. Sản xuất công nghiệp tăng khá; các công trình, dự án điện được đẩy nhanh tiến độ thực hiện.
- Hoạt động du lịch, thương mại, dịch vụ phát triển ổn định; lượng du khách, doanh thu du lịch tăng so với cùng kỳ năm trước. Cảng quốc tế Vĩnh Tân đưa vào hoạt động, đẩy mạnh kết nối vận chuyển hàng hóa của tỉnh và khu vực. Thu ngân sách nhà nước đạt kết quả khá và tăng cao so với cùng kỳ năm trước, nhất là các khoản thu nội địa.
- Chất lượng giáo dục tiếp tục được duy trì. Tỷ lệ thí sinh đỗ tốt nghiệp THPT Quốc gia năm 2019 đạt cao; tiếp tục giữ vững chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, vệ sinh an toàn thực phẩm được chú trọng. Các hoạt động văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao, thông tin - truyền thông được duy trì ổn định. Các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện đầy đủ, kịp thời. Đời sống nhân dân ổn định, một bộ phận có bước cải thiện.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số khó khăn, hạn chế, đáng lưu ý là:
- Tình hình thời tiết không thuận lợi, trời nắng nóng, mùa mưa đến muộn và lượng mưa thấp làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Diện tích gieo trồng và sản lượng lương thực giảm so với cùng kỳ. Sản lượng lương thực dự ước 9 tháng đạt 528,1 ngàn tấn giảm 2,1% so cùng kỳ năm trước.
- Tình hình vi phạm về khai thác IUU (hoạt động đánh bắt cá trái phép, không báo cáo và không được quản lý) vẫn còn xảy ra, từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh xảy ra 5 vụ/6 tàu cá/40 thuyền viên bị nước ngoài bắt giữ.
- Giá một số nông sản chưa ổn định và phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, chất lượng và khả năng cạnh tranh một số nông sản còn thấp.
- Kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản giảm so với cùng kỳ năm trước. Chăn nuôi lợn bi65 ảnh hưởng bởi dịch tả lợn Châu Phi gây thiệt hại đáng kể.
- Thu hút các dự án đầu tư vào các khu công nghiệp còn chậm; Việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án đầu tư bằng vốn ngân sách Nhà nước vẫn còn chậm. Số dự án ngoài ngân sách triển khai xây dựng, đi vào hoạt động còn ít./.
CTK Bình Thuận
TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:
Trang:
/