CÁC TIN LIÊN QUAN
“Vượt siêu bão Yagi”: Kinh tế Việt Nam vẫn dự kiến hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 6,5%-7%

Trao đổi với phóng viên Tạp chí Kinh tế và Dự báo điện tử, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, trên cơ sở kết quả hoạt động kinh tế quý III và 9 tháng năm 2024, Tổng cục Thống kê nhận định, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 theo Nghị quyết Chính phủ từ 6,5-7% là khả thi.

 

Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Nền kinh tế đạt mức tăng trưởng tích cực nhờ công nghiệp và dịch vụ

PV: Xin bà phân tích rõ hơn về bức tranh tăng trưởng kinh tế quý III và 9 tháng năm 2024 với những tác động của bão Yagi tới các chỉ tiêu kinh tế thời gian này?

Bà Nguyễn Thị Hương: Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý III năm 2024 tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản (khu vực I) tăng 2,58%, đóng góp 0,31 điểm phần trăm vào tốc độ tăng giá trị tăng thêm của nền kinh tế; Khu vực công nghiệp và xây dựng (khu vực II) tăng 9,11%, đóng góp 3,7 điểm phần trăm; Khu vực dịch vụ (khu vực III) tăng 7,51%, đóng góp tăng 3,56 điểm phần trăm. Tính chung 9 tháng năm nay, GDP tăng 6,82%, trong đó: Khu vực I tăng 3,2%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; Khu vực II tăng 8,19%, đóng góp 3,23 điểm phần trăm; Khu vực III tăng 6,95%, đóng góp 3,39 điểm phần trăm.

Có thể thấy rõ ảnh hưởng của bão số 3 đổ bộ trong tháng 9 đã tác động tới kết quả tăng trưởng chung của khu vực I. Cụ thể, số liệu thống kê quý III năm 2024 cho thấy, giá trị tăng thêm khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,58%, chỉ cao hơn cùng kỳ năm 2021 nhưng thấp hơn các năm còn lại của giai đoạn 2020-2023; trong đó hoạt động nông nghiệp tăng thấp nhất (giá trị tăng thêm chỉ đạt 2,03%) so với cùng kỳ các năm kể từ năm 2020 đến nay và các quý đầu năm 2024 do nhiều diện tích trồng lúa mùa sắp cho thu hoạch, đàn gia súc, gia cầm ở một số tỉnh miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng bị mất trắng hoặc thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3.

Tăng trưởng quý III của khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản của một số tỉnh có sự sụt giảm đáng kể hoặc tăng thấp: Bắc Giang (-12,94%), Thái Nguyên (-10,81%), Quảng Ninh (-6,97%), Hải Phòng (-5,64%); Lào Cai (-1,13%); Cao Bằng (-1%), Hà Nam (-0,94%), Thái Bình (+0,08%), Phú Thọ (+2,13%), Hải Dương (+2,37%).

Ngược lại, ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn biến tốt: Sản xuất lúa hè thu đạt khá; sản lượng cây lâu năm cho thu hoạch như cây ăn quả, sầu riêng, cà phê, cao su, điều tăng khá nhờ thời tiết tương đối thuận lợi và nhu cầu xuất khẩu tăng cao. Hoạt động lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản của các tỉnh phía Bắc bị thiệt hại do bão lũ nhưng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng giá trị tăng thêm nên không ảnh hưởng nhiều tới kết quả chung của hai nhóm ngành này.

Do đó, hoạt động lâm nghiệp vẫn giữ được mức tăng trưởng ổn định, giá trị tăng thêm quý III đạt 4,32% nhờ hoạt động trồng rừng tăng, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ vào các thị trường chính như Hoa Kỳ, Trung Quốc và châu Âu tăng trưởng tốt; giá gỗ nguyên liệu ở mức cao khuyến khích người dân đẩy mạnh khai thác.

Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long phục hồi mạnh mẽ nhờ tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA) để mở rộng thị trường xuất khẩu, giá trị tăng thêm ngành thủy sản quý III tăng 3,89%.

Do sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III bị ảnh hưởng do bão và hoàn lưu sau bão nên tính chung 9 tháng năm 2024, khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản cũng không đạt mức tăng trưởng như dự kiến, chỉ cao hơn cùng kỳ năm 2020 và thấp hơn mức tăng cùng kỳ các năm từ 2021-2023 với 3,2%; trong đó hoạt động nông nghiệp tăng chậm lại, hoạt động lâm nghiệp và thủy sản đạt mức cao hơn so với cùng kỳ năm trước. Giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 2,92%; ngành lâm nghiệp tăng 4,96%; ngành thủy sản tăng 3,73%.

Đối với 26 tỉnh bị ảnh hưởng bởi bão số 3, thiệt hại chủ yếu ở khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản. Trong hoạt động nông nghiệp, nhiều diện tích lúa và hoa màu bị ngập úng, diện tích nuôi trồng thủy sản bị thu hẹp, nhiều lồng bè bị cuốn trôi, tàu thuyền bị hư hỏng, hệ thống thủy lợi và cơ sở hạ tầng nông nghiệp bị phá hủy… tập trung ở các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Cao Bằng, Lào Cai, Thái Nguyên, Bắc Giang, Sơn La. Mức độ thiệt hại trong ngành nông nghiệp tại các địa phương chịu ảnh hưởng của hoàn lưu bão số 3 không quá nặng nề. Hoạt động thủy sản ở một số tỉnh do tác động trực tiếp bởi cơn bão số 3, như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Yên Bái, Lào Cai cũng giảm mạnh nhưng nhờ kết quả sản xuất thủy sản tại các địa phương trọng điểm vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng khá (chiếm hơn 70% tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng cả nước) nên hoạt động nuôi trồng thủy sản cả nước 9 tháng năm nay vẫn phát triển ổn định. Dù tỷ trọng giá trị tăng thêm khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản của các địa phương bị ảnh hưởng bởi bão, lũ chỉ chiếm khoảng hơn 20% cả nước nên không tác động quá lớn đến tăng trưởng chung của khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản của toàn nền kinh tế.

Khu vực II: Tăng trưởng ngành công nghiệp quý III đạt 9,59% là mức tăng cao nhất trong 3 quý kể từ đầu năm (quý I tăng 6,47%; quý II tăng 8,78%). Trong đó, đóng góp lớn nhất về tăng trưởng của khu vực này phải kể đến ngành chế biến chế tạo với tốc độ tăng 11,41%, đây là mức tăng quý 3 cao nhất kể từ năm 2019.

Có được mức tăng này một phần do thị trường xuất khẩu trên đà khởi sắc, nhà sản xuất nhận thêm nhiều đơn hàng mới cho những tháng cuối năm, mặt khác đây là con số được tính trên nền tăng trưởng khá thấp của năm 2023 (chỉ tăng 5,59% do năm 2023 ngành công nghiệp đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong bối cảnh tổng cầu thế giới suy giảm).

Trong khu vực này, ngành khai khoáng và ngành điện cũng bị ảnh hưởng do bão Yagi. Hai ngành này có tốc độ tăng quý III lần lượt là -7,09% và 8,06%, thấp hơn mức tăng của quý I và quý II (ngành khai khoáng giảm nhiều hơn so với quý I; ngành điện tăng thấp hơn quý I và quý II).

Tuy nhiên, một số yếu tố ngoài dự kiến đã hỗ trợ tăng trưởng của các ngành công nghiệp như ngành lọc hóa dầu có tăng trưởng tốt sau thời kỳ nghỉ bảo dưỡng; ngành điện tử có thêm đơn hàng mới; ngành dệt may tận dụng được những đơn hàng từ nước ngoài do thị trường quốc tế có những khó khăn, bất ổn; đường dây 500kv mạch 3 thông toàn tuyến góp phần giảm các nguồn năng lượng không tái tạo, tận dụng các nguồn năng lương tái tạo, như: thủy điện… nhằm duy trì nguồn điện cho sản xuất và tiêu dùng trên toàn quốc đã giúp tăng trưởng của khu vực công nghiệp không bị giảm so với kịch bản dự kiến mà còn đủ bù đắp những thiệt hại của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Tính chung 9 tháng, mặc dù ngành khai khoáng tiếp tục đà giảm âm kể từ năm 2023 nhưng toàn ngành công nghiệp vẫn tăng trưởng tích cực đạt 8,34%. Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,76% và ghi nhận nhiều ngành trọng điểm có chỉ số sản xuất IIP 9 tháng đạt mức tăng hai con số như: sản xuất sản phẩm từ cao su, plastic tăng trên 28%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng trên 24%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng trên 18%; sản xuất hóa chất, sản phẩm hóa chất tăng trên 16%; sản xuất xe có động cơ, dệt, tăng khoảng 13%; hoạt động sản xuất kim loại, sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn, sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng khoảng 12%. Ngành sản xuất, phân phối điện tăng mạnh trên 11%. Ngành Cung cấp nước; quản lý và xử lý rác thải, nước thải cũng đạt tăng trưởng 9,83%, cao nhất so với cùng kỳ các năm từ 2019 trở lại đây.

Đối với 26 tỉnh bị tác động trực tiếp bởi cơn bão số 3, hoạt động công nghiệp cũng bị ảnh hưởng do nhà xưởng bị lật mái, hàng hóa, nguyên vật liệu, máy móc thiết bị bị hư hại; mất điện, mất nước, mất thông tin liên lạc diện rộng; sản xuất một số nơi bị ngưng trệ tạm thời do mưa lũ nhưng mức độ thiệt hại không lớn do phần lớn khối doanh nghiệp đã có kế hoạch chủ động ứng phó với bão lũ. Các tỉnh có hoạt động công nghiệp phát triển mạnh, như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Ninh đều ít bị tác động do bão Yagi, chỉ số IIP 9 tháng vẫn tăng khá tốt: Hà Nội tăng trên 5%, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Hải Phòng tăng từ 7%-14%.

Ngành Xây dựng trong quý III có xu hướng tăng chậm lại do ảnh hưởng của cơn bão số 3 (Yagi) và hoàn lưu sau bão tại 26 tỉnh phía Bắc và cơn bão số 4 tại các tỉnh miền Trung trong tháng 9/2024 khiến hoạt động xây dựng bị gián đoạn; nhiều công trình đang thi công dở dang trên các địa bàn bị bão đi qua cũng bị hư hại nặng nề. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng tăng 7,09%, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm 2022 và 2023 (18,7% và 8,0%). Tính chung 9 tháng, giá trị tăng thêm ngành xây dựng đạt 7,48%, cao hơn cùng kỳ năm 2023 (tăng hơn 6%) nhưng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2022 (tăng hơn 10%).

Khu vực III: Hoạt động dịch vụ tiếp tục có đóng góp lớn nhất trong tăng trưởng kinh tế. Trong đó, một số ngành có tăng trưởng tốt trong quý III gồm: Vận tải kho bãi (tăng 11,07%); Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (tăng 10,17%); Dịch vụ lưu trú, ăn uống (tăng 8,75%); Bán buôn và bán lẻ; sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy (tăng 7,97%). Ngoài một số ngành dịch vụ chịu tác động trực tiếp của cơn bão số 3 đầu tháng 9 như dịch vụ du lịch, dịch vụ lưu trú ăn uống, vui chơi giải trí thì các ngành dịch vụ khác còn lại vẫn hoạt động ổn định. Tuy nhiên, tháng 9 không phải thời kỳ cao điểm du lịch (cao điểm diễn ra các hoạt động du lịch, lễ hộithường vào trước tháng 9, khi bão chưa xảy ra) do đó, khu vực III không bị ảnh hưởng quá tiêu cực từ cơn bão.

Nhìn chung, trong quý III và 9 tháng năm 2024 nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng tích cực trong bối cảnh khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản bị sụt giảm do ảnh hưởng của yếu tố thời tiết bất thường, nhưng được bù đắp bởi mức tăng ấn tượng của ngành công nghiệp, khu vực dịch vụ tiếp tục duy trì mức tăng khá nhờ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng ổn định, tạo đà phát triển cho quý IV và cả năm.

PV: Cụ thể, tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2024 được hỗ trợ bởi những yếu tố gì thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Hương: Đạt được kết quả như trên, tăng trưởng kinh tế 09 tháng năm 2024 được hỗ trợ bởi một số yếu tố thuận lợi sau:

Thứ nhất, Chính phủ chủ động ban hành các chính sách kích cầu tiêu dùng về giảm, gia hạn thuế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.

Thứ hai, kinh tế vĩ mô giữ ổn định, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ kết hợp hiệu quả đã giúp kiểm soát lạm phát ở vùng an toàn, lãi suất điều hành giảm dần là cơ sở để giảm lãi suất cho vay hỗ trợ sản xuất.

Thứ ba, thu hút vốn FDI đã tăng trở lại, các nhà đầu tư nước ngoài ổn định sản xuất và mở rộng hoạt động. Đối thoại kinh tế giữa Việt Nam và Mỹ diễn ra nhằm cụ thể hóa quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Australia cũng mở ra nhiều cơ hội kinh tế vì đây là thị trường quen thuộc với đa số người dân và cộng đồng người Việt ở Australia cũng khá đông.

Bên cạnh đó, tôi cũng xin lưu ý thêm một số yếu tố rủi ro:

Thứ nhất, hoạt động du lịch đã chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng, chưa thực sự đáp ứng được như kỳ vọng, cần được nghiêm túc khai thác bài bản các sản phẩm du lịch, hiệu quả để tạo cú hích cho tăng trưởng kinh tế.

Thứ hai, doanh nghiệp vẫn đối mặt với ba vấn đề lớn về thị trường, vốn và pháp lý; một số quy định, thủ tục hành chính, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, điều kiện kinh doanh còn rườm rà, chưa được cắt giảm triệt để.

Thứ ba, doanh nghiệp phải đáp ứng tốt các tiêu chuẩn mới, tiêu chuẩn xanh, phát triển bền vững, tiêu chuẩn môi trường - xã hội - quản trị (ESG)… đòi hỏi nguồn lực đầu tư lớn, trong khi thời gian để chuyển đổi không còn nhiều (nhiều nước dự kiến áp dụng từ năm 2026).

Thứ tư, thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp… đã ổn định hơn, nhưng còn nhiều vấn đề cần tháo gỡ như: tăng trưởng tín dụng; xử lý nợ xấu, ngân hàng yếu kém, ngân hàng “0 đồng”; tháo gỡ vướng mắc cho các dự án bất động sản, nhất là các dự án lớn; áp lực đáo hạn trái phiếu doanh nghiệp; nâng hạng thị trường chứng khoán…

Thứ năm, biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đến con người, hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế.

khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,5%-7% là khả thi

PV: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng đã công bố những thiệt hại ban đầu của con bão Yagi tới nền kinh tế. Vậy, Tổng cục Thống kê đánh giá về tác động của bão Yagi tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024 như thế nào, thưa bà?

Bà Nguyễn Thị Hương: Cơn bão số 3 (bão Yagi) đổ bộ vào miền Bắc đầu tháng 9/2024 được đánh giá là cơn bão mạnh nhất trong 30 năm qua. Bão số 3 và hoàn lưu sau bão đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống và tình hình sản xuất kinh doanh của 26 tỉnh, thành phố miền núi phía Bắc và đồng bằng sông Hồng với mức độ thiệt hại khác nhau.

Nhiều ngành kinh tế đã chịu thiệt hại do gió lốc, ngập lụt, sạt lở đất... nhưng nặng nề nhất là hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nhiều diện tích lúa, hoa màu bị ngập úng; gia súc, gia cầm, thủy sản bị cuốn trôi, bên cạnh đó nhiều công trình giao thông bị lún sụt, sạt lở, cơ sở hạ tầng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều nhà máy bị ngập, tốc mái, hư hại. Theo ước tính sơ bộ ban đầu, bão Yagi gây thiệt hại khoảng hơn 80 nghìn tỷ đồng cho các địa phương miền Bắc.

Trong 3 khu vực kinh tế, khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản bị ảnh hưởng nặng nề nhất do cơn bão số 3, nhưng do tỷ trọng giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản của 26 tỉnh bị ảnh hưởng của bão chỉ chiếm khoảng trên 20% giá trị tăng thêm cả nước, nên tác động tới tăng trưởng toàn ngành của cả nước không cao.

Ngành công nghiệp và xây dựng cũng chịu ảnh hưởng do nhiều công trình thiết yếu, đường sá, cầu cống, hệ thống lưới điện, cấp nước cấp điện bị hư hại nghiêm trọng, tình trạng mất điện, mất thông tin liên lạc trong những ngày mưa bão, ngập lụt làm ngừng trệ sản xuất ở các khu công nghiệp.

Tuy nhiên, những thiệt hại về cơ sở hạ tầng chỉ tính vào thay đổi tài sản của nền kinh tế, không tính vào hoạt động sản xuất trong kỳ nên mức độ thiệt hại cho hoạt động sản xuất cũng không đáng kể.

Mặt khác, các doanh nghiệp sản xuất đã chủ động phục hồi sản xuất kinh doanh ngay sau bão để kịp tiến độ các đơn hàng nên công nghiệp chế biến chế tạo vẫn có mức tăng trưởng khá ấn tượng bù đắp những thiệt hại trong ngành nông nghiệp.

Ngành dịch vụ cũng chịu tác động của cơn bão số 3, nhưng mức độ thiệt hại không cao do thời điểm cơn bão diễn ra không phải cao điểm mùa du lịch. Bên cạnh đó, một số ngành dịch vụ có tăng trưởng tốt hỗ trợ cho sản xuất và xuất khẩu như vận tải kho bãi, thông tin truyền thông... Tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ quý III đạt 7,51%, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, trong quý III, với điểm sáng là ngành công nghiệp chế biến chế tạo, ngành dịch vụ duy trì tăng trưởng ổn định, ngành nông lâm thủy sản không bị giảm mạnh là những nhân tố đưa tăng trưởng toàn nền kinh tế đạt 7,4%, phù hợp với mức cận trên của kịch bản phấn đấu theo Nghị quyết của Chính phủ là 6,5-7%.

Trên cơ sở kết quả hoạt động kinh tế quý III và 9 tháng năm 2024, Tổng cục Thống kê nhận định, khả năng đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 theo Nghị quyết Chính phủ từ 6,5-7% là khả thi.

Để đạt được mục tiêu tăng trưởng cả năm 6,5% thì quý IV sẽ cần tăng 5,7%; mục tiêu 6,8% thì quý IV cần tăng 6,76%; mục tiêu 7% thì quý IV cần tăng 7,5%. Với kết quả tăng trưởng của quý III và 9 tháng, cùng với nhận định về xu hướng tăng trưởng các tháng cuối năm, tăng trưởng kinh tế cả năm 2024 khả năng cao đạt được mục tiêu cận trên của kịch bản tăng trưởng.

Đâu là các động lực tăng trưởng của nền kinh tế?

PV: Với những tác động của báo Yagi, xin bà phân tích rõ hơn các động lực tăng trưởng trong quý III và 9 tháng năm 2024 từ phía cung và phía cầu?

Bà Nguyễn Thị Hương: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý III và 9 tháng năm 2024 ước đạt 7,40% và 6,82%, cao hơn mức kỳ vọng trong bối cảnh nền kinh tế một số địa phương phía Bắc bị ảnh hưởng không nhỏ bởi cơn bão số 3 đầu tháng 9 vừa qua. Đạt được kết quả này, ngoài nỗ lực trong quản lý, điều hành của Chính phủ; sự đồng lòng, ủng hộ của người dân còn nhờ vào một số động lực chính dưới đây.

Nhìn chung, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, đảm bảo các cân đối của nền kinh tế, tạo tiền đề, điều kiện cho kiến tạo phát triển. Các lĩnh vực như công nghiệp, nông nghiệp, hoạt động du lịch, xuất khẩu và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đều đóng góp tích cực vào tăng trưởng của nền kinh tế. Ngành nông nghiệp tiếp tục phát huy thế mạnh xuất khẩu, trong khi công nghiệp phục hồi mạnh mẽ nhờ thị trường quốc tế dần ổn định. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch được ghi nhận tăng trưởng tốt, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI duy trì được sức hút, đã góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế.

Từ phía sản xuất:

- Ngành công nghiệp chế biến chế tạo phục hồi mạnh mẽ nhờ nhu cầu quốc tế tăng lên sau khi chuỗi cung ứng toàn cầu được cải thiện, giúp ngành lấy lại được vai trò động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm 2024. Một số ngành có chỉ số IIP tăng mạnh như: giường tủ bàn ghế (tăng 24,7%), dệt (tăng 12,8%), sản xuất da và các sản phẩm liên quan (tăng 11,6%), trang phục (tăng 9,9%), sản xuất sản phẩm điện tử (tăng 9,1%).

- Các ngành dịch vụ thị trường tăng trưởng khá tích cực do được hỗ trợ từ nhu cầu du lịch tăng trong các thời kỳ cao điểm du lịch với hơn 12,7 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam trong 9 tháng năm 2024, tăng 43% so với cùng kỳ năm trước, cùng với sự khởi sắc của sản xuất công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu đã lan tỏa tích cực đến bán buôn, bán lẻ, hoạt động lưu trú ăn uống, vận tải, vui chơi giải trí...

- Sự ổn định và phát triển theo chiều sâu của ngành nông nghiệp vẫn là một lợi thế và cột trụ quan trọng, giúp gia tăng kim ngạch xuất khẩu và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

- Cơ sở hạ tầng cho sản xuất tiếp tục được hoàn thiện, tạo sự đồng bộ trong sản xuất và lưu thông hàng hóa. Các đường cao tốc mới tiếp tục được đẩy nhanh tiến độ nhằm hoàn thiện mạng lưới giao thông, kết nối người sản xuất và người tiêu dùng. Các công trình điện, điện lưới tiếp tục được đầu tư mở rộng nhằm bảo đảm duy trì tối đa năng lực sản xuất của các ngành kinh tế

- Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ở vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng trưởng ổn định, với tỷ trọng lớn đã góp phần ngăn chặn sự suy giảm của toàn ngành Nông, lâm nghiệp, thủy sản do bão số 3 gây ra đối với các tỉnh phía Bắc. Nhờ đó, sản xuất và xuất khẩu nông sản, sản phẩm thủy, hải sản vẫn được đảm bảo; đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế.

Từ phía cầu cuối cùng:

- Hoạt động thương mại quốc tế đang dần được phục hồi tiếp tục là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế trong 9 tháng năm 2024. Xuất khẩu được hỗ trợ lớn từ nhu cầu tiêu dùng, mua sắm tại các thị trường lớn như Mỹ, EU phục hồi. Cụ thể, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trong 9 tháng năm 2024 đạt 578,5 tỷ USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó xuất khẩu đạt 299,6 tỷ USD, tăng 15,4%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 20,8 tỷ USD.

- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tiếp tục gia tăng là điểm sáng, hỗ trợ cho phát triển sản xuất và xuất khẩu, là động lực quan trọng góp phần vào tăng trưởng kinh tế 9 tháng đầu năm 2024. Vốn đầu tư thực hiện của khu vực FDI 9 tháng đầu năm ước tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn rất nhiều mức tăng 3,9% cùng kỳ năm 2023. Đầu tư đang có xu hướng tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu phục hồi và các nhà đầu tư lạc quan hơn trong đầu tư vào các dự án. Nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng đầu tư cho thấy niềm tin của các nhà đầu tư vào môi trường kinh doanh tại Việt Nam.

- Tiêu dùng trong nước ổn định có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng 9 tháng năm 2024. Các chính sách vĩ mô đã được thực hiện từ năm 2023 như giảm thuế VAT, hỗ trợ người tiêu dùng thông qua giảm phí, lệ phí…; cải cách tiền lương, nỗ lực giảm giá hàng hóa - dịch vụ từ phía các doanh nghiệp, các hình thức khuyến mãi mua sắm, chi tiêu du lịch trong nước… góp phần gia tăng sức mua nội địa vốn bị suy giảm từ thời dịch bệnh COVID-19.

Trong những tháng cuối năm 2024, mặc dù tăng trưởng được kỳ vọng tiếp tục duy trì, nền kinh tế vẫn đối mặt với những thách thức như sự bất ổn của kinh tế toàn cầu, xu hướng bảo hộ thương mại từ các đối tác lớn và lạm phát. Tuy nhiên, với các biện pháp hỗ trợ từ Chính phủ, chính sách tiền tệ linh hoạt và các biện pháp thúc đẩy đầu tư, kinh tế Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục duy trì đà tăng trưởng.

 

Nguồn: Tổng cục Thống kê

PV: Xin bà chia sẻ cụ thể hơn về các giải pháp trọng tâm để đạt được mục tiêu tăng trưởng đề ra trong bối cảnh đầy thách thức hiện nay?

Bà Nguyễn Thị Hương: Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế những tháng cuối năm 2024, tạo đà tăng trưởng cho những năm tiếp theo, chúng tôi đã đề xuất 6 giải pháp trọng tâm, được xem như những trụ cột vững chắc cho tăng trưởng kinh tế bền vững.

Thứ nhất, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát tốt lạm phát và ổn định tỷ giá hối đoái. Mặc dù thúc đẩy tăng trưởng, nhưng chính phủ cần tiếp tục thực hiện các chính sách nhằm kiểm soát lạm phát và duy trì mức giá ổn định để đảm bảo sức mua của người dân không bị suy giảm. Đảm bảo nguồn cung ngoại tệ ổn định để tránh biến động tỷ giá ảnh hưởng đến nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh tiêu dùng cuối cùng trong nước bằng cách thực hiện có hiệu quả các chương trình kích cầu như giảm giá, khuyến mãi, khuyến khích tiêu dùng, đặc biệt là các mặt hàng sản xuất trong nước, vận động người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam. Thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử.

Thứ ba, thúc đẩy xuất khẩu và hội nhập quốc tế bằng cách tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia hội chợ quốc tế, tìm kiếm đối tác mới và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Thứ tư, đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, tăng cường giải ngân các dự án đầu tư công, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông để tạo động lực cho các ngành liên quan như xây dựng, sản xuất vật liệu, dịch vụ logistics cũng như thúc đẩy thuận lợi trong lưu thông hàng hóa.

Thứ năm, hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua đẩy mạnh ứng dụng công nghệ và đổi mới sáng tạo, giảm chi phí sản xuất. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh, công nghệ sạch nhằm đáp ứng tiêu chuẩn môi trường của các thị trường xuất khẩu lớn như EU và Mỹ. Hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số trong quá trình sản xuất, kinh doanh và quản lý nhằm tăng năng suất, giảm chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh. Đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất thông qua các chính sách về thuế, phí, lãi suất.

Thứ sáu, cải thiện môi trường kinh doanh, cắt giảm thủ tục hành chính, đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm thiểu các rào cản, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận nhanh chóng với nguồn vốn, thị trường và các chương trình hỗ trợ của chính phủ.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, thách thức, có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam, tôi cho rằng, việc thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp trên tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, ổn định chính trị, xã hội là yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong những tháng cuối năm 2024.

- Xin cảm ơn bà vì những trao đổi này!

Nguồn: Phương Anh (Tạp chí Kinh tế và Dự báo)




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/