TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 9, quý III và 9 tháng đầu năm 2024 tỉnh Bình Thuận

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực nhiều biến động khó lường, nền kinh tế trong nước gặp nhiều khó khăn, thách thức tác động đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên qua các số liệu thống kê cho thấy, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 9 tháng năm 2024 đạt được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực. Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) 9 tháng đầu năm 2024 dự ước tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,7%; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 9,59% (công nghiệp tăng 9,38%, xây dựng tăng 10,58%); khu vực dịch vụ tăng 5,93%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 2,89%. Thể hiện trên các lĩnh vực sau:

 

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2024 duy trì ổn định. Đầu vụ đông xuân 2024 nguồn nước tương đối thuận lợi cho sản xuất ngành trồng trọt; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi cơ bản được kiểm soát, không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm; tuy nhiên đến cuối vụ do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng kéo dài, khô hạn, thiếu nước cục bộ diễn ra ở một số địa phương trong tỉnh. Vụ hè thu thời tiết tương đối thuận lợi, lượng nước lưu trữ ở các hồ đầy đủ, lượng mưa phân bố đều, nông dân tích cực xuống giống. Trong tháng tập trung triển khai sản xuất vụ mùa, tuy nhiên do ảnh hưởng của bão số 3, gây mưa nhiều cục bộ làm chậm tiến độ gieo trồng ở một số địa phương, đặc biệt ở huyện Tánh Linh. Ngành chăn nuôi tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực, chuyển từ chăn nuôi nhỏ lẻ, hộ gia đình sang hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường. Sản lượng thuỷ sản từ đầu năm đến nay ổn định, ngư trường khai thác tương đối thuận lợi; quý III tốc độ tăng chậm do ảnh hưởng của bảo và áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông. Tỉnh đã tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU) trên địa bàn tỉnh, 9 tháng đầu năm 2024 không xảy ra tình trạng tàu cá của tỉnh vi phạm vùng biển nước ngoài.

1. Trồng trọt

1.1. Cây hàng năm

- Tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông xuân và hè thu ước đạt 114.510,6 ha, tăng 0,46% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây lương thực ước đạt 91.220,6 ha, tăng 1,24%; sản lượng lương thực ước đạt 573.718,6 tấn, tăng 1,8%, tăng chủ yếu ở cây lúa. Chương trình xã hội hóa giống lúa được quan tâm, trong hai vụ này toàn tỉnh thực hiện được 2.381 ha; các hình thức liên kết sản xuất được chú trọng triển khai, toàn tỉnh có 16.269 ha lúa chất lượng cao thực hiện liên kết sản xuất tiêu thụ.

+ Vụ đông xuân diện tích gieo trồng đạt 50.615,7 ha, giảm 0,03% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cây lương thực đạt 42.839,4 ha, tăng 0,18% (cây lúa đạt 39.958,8 ha, tăng 1,4%; năng suất đạt 67,8 tạ/ha, tăng 3,3 tạ/ha; sản lượng 270.967,1 tấn, tăng 2,85%).

+ Vụ hè thu diện tích gieo trồng đạt 63.894,9 ha, tăng 0,85% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cây lương thực ước đạt 48.381,2 ha, tăng 2,2%; sản lượng đạt 279.600 tấn, tăng 2,1%; năng suất ước đạt 57,8 tạ/ha, tương đương so với cùng kỳ năm trước (cây lúa ước đạt 42.788,4 ha, tăng 4,8%; năng suất ước đạt 57,3 tạ/ha, tăng 0,1 tạ/ha; sản lượng ước đạt 245.000 tấn, tăng 4,9%).

- Tiến độ sản xuất vụ mùa 2024: Trong tháng các địa phương tập trung triển khai sản xuất; ngay từ đầu vụ gặp một số khó khăn về thời tiết, mưa lũ ảnh hưởng đến tiến độ gieo trồng. Tính đến ngày 15/9/2024 diện tích vụ mùa xuống giống đạt 38.942,9 ha, giảm 0,34% so với cùng kỳ năm trước; giảm chủ yếu ở diện tích lúa của huyện Tánh Linh do ảnh hưởng của mưa lũ. Diện tích xuống giống cây lúa đạt 19.681,5 ha, giảm 1,19%; cây bắp đạt 1.524,1 ha, tăng 5,51%; rau các loại đạt 1.324,1 ha, tăng 3,36%; đậu các loại đạt 1.298,5 ha, giảm 1,02%.

Nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất, tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, trong 9 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi 3.456 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác mang lại hiệu quả cao hơn.

1.2. Cây lâu năm

Trong 9 tháng đầu năm 2024, các địa phương tiếp tục tập trung thu hoạch và chăm sóc diện tích cây lâu năm hiện có, bên cạnh đó đã thực hiện chuyển đổi một số diện tích cây kém hiệu quả sang trồng mới các loại cây khác mang lại giá trị kinh tế cao hơn. Dự ước 9 tháng đầu năm 2024, diện tích trồng cây lâu năm đạt 108.815,7 ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây công nghiệp đạt 66.732,3 ha, giảm 0,3%; cây ăn quả đạt 41.478,5 ha, tăng 4,6%; các loại cây lâu năm khác đạt 595,9 ha, giảm 43,8%. Diện tích, sản lượng một số cây trồng chính như sau:

- Cây thanh long: Diện tích ước đạt 26.900 ha, giảm 1,54% so với cùng kỳ năm trước; giảm chủ yếu ở huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân do người dân chuyển diện tích sang trồng các loại cây khác. Trong tháng, mưa nhiều một số diện tích thanh long trên địa bàn huyện Hàm Thuận Nam bị ngập lụt (xã Hàm Mỹ ngập 400 ha, xã Hàm Kiệm ngập 285,72 ha, xã Hàm Minh ngập 160 ha, thị trấn Thuận Nam ngập 83,53 ha, xã Tân Lập ngập 16 ha, xã Hàm Cường ngập 137 ha). Chín tháng đầu năm 2024, giá bán thanh long tương đối ổn định (có lúc trên 20 ngàn đồng/kg), nhiều hộ tập trung chong đèn trái vụ, sản lượng ước đạt 460.000 tấn, tăng 1,55% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 15/9/2024, toàn tỉnh có 8.559,2 ha thanh long được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.

- Cây điều: Diện tích ước đạt 17.000 ha, giảm 1,45% so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm nhiều nhất ở huyện Đức Linh do một số vườn điều già cỗi ở các xã Đông Hà, Trà Tân, Tân Hà, Đa Kai, Mê Pu cho năng suất thấp nên người dân chuyển sang trồng các loại cây như sầu riêng, xoài, cao su...; tại huyện Bắc Bình giảm ở các xã Hòa Thắng, Phan Rí Thành do diện tích trồng trên đất cát bạc màu, lão hóa, năng suất thấp người dân chặt bỏ; huyện Hàm Thuận Bắc giảm ở xã La Dạ người dân chuyển sang trồng sầu riêng. Sản lượng 9 tháng năm 2024 ước đạt 12.700 tấn, giảm 2,81% so với cùng kỳ năm trước. Nhìn chung, giá điều những năm gần đây ổn định nhưng do nhiều diện tích điều đã trồng lâu năm, già cỗi, năng suất thấp nên người dân chuyển sang trồng các loại cây khác hiệu quả hơn.

- Cao su: Diện tích ước đạt 45.600 ha, tăng 0,84% so với cùng kỳ năm trước, tăng chủ yếu ở huyện Đức Linh, Tánh Linh do người dân trồng mới. Sản lượng 9 tháng năm 2024 ước đạt 42.000 tấn, tăng 2,44% so với cùng kỳ năm trước. Trong những tháng đầu năm 2024 nhu cầu nhập khẩu mủ cao su của các nước có dấu hiệu khả quan, giá bán mủ cao su tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước.

- Cây tiêu: Diện tích ước đạt 801 ha, giảm 22% so với cùng kỳ năm trước, diện tích giảm chủ yếu ở huyện các huyện Đức Linh và Tánh Linh; các huyện còn lại diện tích không có nhiều biến động. Mặc dù giá tiêu tăng trở lại nhưng trên cây tiêu, sâu bệnh thường xuyên xuất hiện gây hại nên hạn chế đầu tư. Sản lượng thu hoạch 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.100 tấn, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước.

- Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.

1.3. Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất

Trong 9 tháng đầu năm 2024, diện tích tưới lúa, hoa màu thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh 74.230 ha, đạt 78,3% kế hoạch; diện tích tưới cây thanh long và cây ăn quả 16.376 ha, đạt 83,3% kế hoạch; diện tích cấp nước nuôi trồng thủy sản 411 ha, đạt 100% kế hoạch. Đến ngày 10/9/2024, lượng nước hữu ích tại các hồ chứa trong tỉnh là 216,8 triệu m3 (đạt 59,5%), thấp hơn 43,5 triệu m3 so với cùng kỳ; Hồ chứa Đại Ninh 83,2 triệu m3 (đạt 33,1%), thấp hơn 47,7 triệu m3 so với cùng kỳ; Hàm Thuận - Đa Mi 184 triệu m3 (đạt 35,2%), thấp hơn 297,3 triệu m3 so với cùng kỳ.

1.4. Tình hình dịch bệnh trên cây trồng

Công tác phòng ngừa sâu bệnh được chủ động thực hiện thường xuyên; các đối tượng sâu bệnh gây hại trên cây trồng xuất hiện và gây hại trên diện rộng, nhưng tỷ lệ gây hại thấp, không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng: Cây lúa diện tích nhiễm rầy nâu 329 ha, bệnh đạo ôn lá 1.014 ha, sâu cuốn lá 471 ha; cây thanh long bệnh đốm nâu phát sinh gây hại khá phổ biến trên các vườn thanh long, diện tích nhiễm 3.029 ha chủ yếu là nhiễm nhẹ, bệnh vàng cành 2.123 ha, bệnh thối rễ 1.408 ha (tăng 499 ha so cùng kỳ); cây mì diện tích nhiễm bệnh khảm lá virus 351 ha (giảm 66 ha so cùng kỳ); các loại sâu bệnh khác trên cây trồng vẫn xuất hiện nhưng với mật độ thấp.

 

1.5. Công tác ứng dụng khoa học công nghệ và khuyến nông

Trong 9 tháng đầu năm 2024, tiếp tục thực hiện 05 mô hình sản xuất nông nghiệp hiệu quả từ năm 2023. Trong đó, nổi bật là mô hình sản xuất lúa SRI theo hướng hữu cơ đạt chứng nhận VietGAP (quy mô 25 ha, năng suất đạt 50 - 55 tạ/ha, lợi nhuận cao hơn 7 triệu đồng/ha so với sản xuất đại trà); mô hình thâm canh sầu riêng đạt tiêu chuẩn VietGAP (năng suất bình quân 22 tấn/ha, lợi nhuận đạt 1,4 tỷ đồng/ha; cao hơn 55 triệu/ha so với ngoài mô hình), đặc biệt 40 ha sầu riêng đã được tổ chức chứng nhận FAO cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGAP cho sản phẩm quả tươi. Bên cạnh đó, các địa phương triển khai thực hiện 13 mô hình khuyến nông, khuyến ngư và xây dựng các mô hình trình diễn sản xuất lúa theo tiêu chuẩn VietGAP hoặc tương đương; lập hồ sơ đăng ký khảo nghiệm Giống lúa ML221 đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận; sản xuất và cung ứng 110 tấn lúa giống, 2.000 cây ăn quả các loại và hàng trăm con lợn giống chất lượng tốt phục vụ cho chương trình giống của tỉnh.

2. Chăn nuôi

Chăn nuôi trong 9 tháng đầu năm 2024 diễn ra trong điều kiện thuận lợi; giá thịt hơi nhiều loại gia súc, gia cầm tăng; tình hình dịch bệnh cơ bản được kiểm soát; đàn trâu, bò duy trì phát triển ổn định, có khuynh hướng tăng nhẹ; chăn nuôi lợn, gia cầm theo chuỗi giá trị, an toàn sinh học, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao được thúc đẩy, mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao đang dần được phổ biến, nhân rộng, phát triển theo hướng bền vững. So với cùng kỳ năm trước, toàn tỉnh có 8,6 ngàn con trâu, tăng 1,29%; có 184,5 ngàn con bò, tăng 1,93%; có 400,2 ngàn con lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 4,76%; có 6.924,2 ngàn con gia cầm, tăng 1,91% (trong đó đàn gà 5.500 ngàn con, tăng 2,32%).

 

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật

Trong 9 tháng đầu năm 2024, không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm. Một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm ở mức độ lẻ tẻ, không lây lan thành dịch.

- Tiêm phòng 2.983,6 ngàn liều vắc xin (trong đó trâu, bò 61,5 ngàn liều; lợn 116,6 ngàn liều; gia cầm 2.800,9 ngàn liều). Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024 đã tiêm phòng 17.952 ngàn liều (trong đó trâu, bò 235,1 ngàn liều; lợn 490,1 ngàn liều và gia cầm 17.190,8 ngàn liều).

- Kiểm dịch 112,8 ngàn con lợn; 899 con trâu bò; 311,9 ngàn con gia cầm; 626,5 tấn thịt các loại; 3,7 tấn thịt sơ chế và 6,2 triệu quả trứng gia cầm. Lũy kế 9 tháng năm 2024 đã kiểm dịch 1,2 triệu con lợn; 14,3 ngàn con trâu bò; 1,4 triệu con gia cầm; 5,1 ngàn tấn thịt các loại; 40 triệu quả trứng gia cầm và 65,3 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ 160 con trâu, bò; 3,7 ngàn con lợn; 1,0 ngàn con gia cầm và 107 con dê. Lũy kế 9 tháng năm 2024 đã kiểm soát giết mổ 2,0 ngàn con trâu, bò; 35,4 ngàn con lợn; 9,9 ngàn con gia cầm và 900 con dê.

3. Sản xuất lâm nghiệp

- Công tác trồng rừng: Trong tháng các đơn vị chủ rừng đã tiến hành trồng rừng sản xuất đạt 860 ha, tăng 1,18% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 diện tích trồng mới ước đạt 2.130 ha, tăng 10,7%. Lũy kế 9 tháng năm 2024 diện tích rừng trồng mới ước đạt 2.920 ha, tăng 1,85% so với cùng kỳ năm trước. Thực hiện khoán bảo vệ rừng 140.152 ha.

- Công tác phòng, chống cháy rừng: Tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát các khu vực có nguy cơ cháy cao; theo dõi và thông báo kịp thời cấp dự báo cháy rừng trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố; thực hiện hoàn thành và nghiệm thu đưa vào sử dụng các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng. Trong tháng trên địa bàn toàn tỉnh không xảy ra cháy rừng; lũy kế 9 tháng năm 2024 đã xảy ra 21 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng các trường hợp cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Tích cực triển khai công tác bảo vệ rừng, quản lý lâm sản, chống lấn chiếm đất rừng ngay từ những tháng đầu năm; tăng cường triển khai các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét các vùng trọng điểm; chú trọng theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh. Lũy kế 9 tháng năm 2024 đã phát hiện, lập hồ sơ xử lý 237 vụ vi phạm; xử phạt vi phạm hành chính 210 vụ; tịch thu 157,72 m3 gỗ các loại, 115,7 kg động vật rừng, 01 xe ô tô, 105 xe máy và 39 phương tiện khác. Toàn tỉnh xảy ra 51 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 19,81 ha.

4. Thuỷ sản

- Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản trong tháng ước đạt 237,5 ha, tăng 2,19% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 2.006,4 ha, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: diện tích nuôi cá ước đạt 1.401 ha, tăng 2,1%; diện tích nuôi tôm đạt 528 ha, tăng 3,35%). Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 1.136 tấn, tăng 2,16% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: cá các loại ước đạt 639 tấn, tăng 2,08%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 480 tấn, tăng 2,35%). Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 7.206 tấn, tăng 2,18% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: cá các loại ước đạt 3.565,8 tấn, tăng 2,65%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 3.491,7 tấn, tăng 1,64%).

- Khai thác thủy sản: Sản lượng thuỷ sản trong 9 tháng năm 2024 ổn định do thời tiết và ngư trường tương đối thuận lợi; tuy nhiên trong quý III bị ảnh hưởng của áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông nên khai thác gặp khó khăn. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 21.661 tấn, tăng 0,62% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 178.155,3 tấn, tăng 1,24% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước đạt 177.743 tấn, tăng 1,25%). Khai thác thuỷ sản nội địa giảm do diện tích mặt nước ngày càng thu hẹp, các loại thuỷ sản được khai thác ở các sông, suối đầm hồ thuỷ lợi chủ yếu là các loại cá rô, lóc, trạch, trê, tôm, cua.

- Sản xuất giống thuỷ sản: Tình hình sản xuất tôm giống trên địa bàn tỉnh ổn định so với năm trước; sản lượng tôm giống trong tháng ước đạt 2 tỷ con, tăng 2,61% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 16,8 tỷ con, tăng 2,26% so với cùng kỳ năm trước.

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Trong 9 tháng năm 2024 tiếp tục quản lý, ngăn chặn tàu nguy cơ cao vi phạm vùng biển nước ngoài; đến nay không có tàu cá, ngư dân Bình Thuận vi phạm về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Hoàn thành việc rà soát, thống kê tàu cá “03 không”, cấp giấy phép khai thác thuỷ sản còn hạn 5.473/6.924 tàu cá (đạt 79,1%), đăng kiểm 3.244/3.851 tàu cá từ 12 mét trở lên (đạt 84,2%), xoá đăng ký 19 tàu cá, cấp chứng nhận/cam kết ATTP 2.538 tàu cá (đạt 37,4%); lắp đặt thiết bị VMS cho 1.943/1.951 tàu cá có chiều dài từ 15 mét trở lên (đạt 100% tàu cá hoạt động), tiếp tục phát huy hệ thống giám sát tàu cá trong giám sát, ngăn chặn tàu cá vượt ranh giới vi phạm vùng biển nước ngoài. Xử lý vi phạm khai thác nguồn lợi thủy sản tiếp tục được tăng cường, lực lượng kiểm ngư đã phát hiện, chuyển cơ quan chuyên môn, chính quyền địa phương đã xử lý 372 vụ với số tiền 2,9 tỷ đồng.

 

II. Công nghiệp; xây dựng; đầu tư phát triển

1. Công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp ước 9 tháng năm 2024 diễn biến theo xu hướng tích cực và có sự tăng trưởng. Ngành sản xuất và phân phối điện tiếp tục góp phần lớn vào mức tăng trưởng toàn ngành công nghiệp; ngành công nghiệp chế biến chế tạo dần phục hồi ở một số ngành như: Sản xuất đồ uống, trang phục, giày dép, đồ gỗ,… tuy nhiên vẫn còn khó khăn trong khâu tìm kiếm đơn hàng xuất khẩu.

1.1. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP)

Trong tháng Chín, dự ước IIP tăng 23,34% so với tháng trước và tăng 32,02% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,07%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 18,52%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 38,24%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,73%.

 Quý III/2024 dự ước IIP giảm 20,85% so với quý trước (do một số nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân trùng tu, sửa chửa các tổ máy) và tăng 3,71% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 6,96%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 10,65%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 1,28%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,68%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, IIP ước tăng 8,80% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng giảm 5,00%; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 6,10%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 10,16%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,60%. Mức tăng chung của 9 tháng năm 2024 chủ yếu do sự đóng góp của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí cùng với sự phục hồi của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo...

1.2. Một số sản phẩm chủ yếu

Các sản phẩm sản xuất 9 tháng năm 2024 tăng so với cùng kỳ gồm: Thủy sản đông lạnh tăng 8,92%; muối hạt tăng 32,46%; hạt điều nhân tăng 12,59%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) tăng 12,83%; quần áo may sẵn tăng 5,46%; nước máy sản xuất tăng 6,04%; điện sản xuất tăng 10,12%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 42,69%; giày, dép các loại tăng 48,16%. Sản phẩm giảm gồm: Cát sỏi các loại giảm 20,06%; đá khai thác giảm 5,71%; thủy sản khô giảm 24,53%; nước mắm giảm 16,43%; gạch các loại giảm 11,05%;  sơ chế mũ cao su giảm 12,83%; thức ăn gia súc giảm 20,3%.

1.3. Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động tháng 9/2024 tăng 1,09% so với tháng trước và tăng 11,81% so cùng kỳ, lũy kế 9 tháng năm 2024 tăng 11,81% so với cùng kỳ (9 tháng năm 2023 giảm 5,33%); trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 3,31%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 10,18%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,17%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,9%.

Theo loại hình doanh nghiệp, chỉ số sử dụng lao động 9 tháng năm 2024 của khối doanh nghiệp nhà nước giảm 4,47% so với cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 7,47%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 20,51%.

1.4. Chỉ số tiêu thụ

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng ước tăng 10,81% so với tháng trước và tăng 15,22% so với cùng kỳ; lũy kế 9 tháng năm 2024 chỉ số tiêu thụ giảm 5,03% so với cùng kỳ.

Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng so với cùng kỳ như: Sản xuất đồ uống tăng 11,71%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 39,01%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu tăng 5,76%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 43,84%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ như: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 3,98%; sản xuất trang phục giảm 6,26%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất sản phẩm từ rơm, rạ và vật liệu tết bện giảm 35,22%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 3,15%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 21,5%…

1.5. Chỉ số tồn kho

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng ước tăng 1,91% so với tháng trước và tăng 4,37% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: Sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,39%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa (trừ giường, tủ, bàn, ghế); sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 39,94%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 3,65%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 22,51%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 11,15%;... Ngược lại cũng có ngành tăng so với cùng kỳ như: sản xuất đồ uống tăng gấp 30,2 lần (do lỗi nhãn sản phẩm chưa xuất hàng được); sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 64,38%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 2,5 lần; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 47,99%;...

1.6. Tình hình xu hướng sản xuất kinh doanh ngành chế biến, chế tạo

Kết quả khảo sát xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo trong quý III/2024 như sau: Có 41,79% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý trước (quý III/2023 so với quý II/2023: 26,15%); 41,79% số doanh nghiệp cho rằng ổn định (quý III/2023 so với quý II/2023: 33,85%) và 16,42% đánh giá khó khăn hơn (quý III/2023 so với quý II/2023: 40%). Nếu phân loại theo hình thức sở hữu: Có 39,29% doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận định chiều hướng tốt lên, 42,86% có chiều hướng giữ nguyên và 17,86% có chiều hướng khó khăn hơn; có 50% doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài (FDI) chiều hướng tốt lên, 40% có chiều hướng giữ nguyên và 10% có chiều hướng khó khăn hơn; có 100% doanh nghiệp nhà nước đánh giá tốt lên. Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý IV/2024 so với quý III/2024: Có 86,57% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, 5 trong đó có 58,21% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn; 28,36% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 13,43% dự báo khó khăn hơn.

1.7. Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Trong 9 tháng năm 2024, hoạt động sản xuất kinh doanh của phần lớn các doanh nghiệp được duy trì ổn định; các doanh nghiệp có đơn đặt hàng ổn định, tập trung ở các nhóm ngành hàng chủ lực như: giày dép, may mặc, túi xách, hạt điều, thủy hải sản, thực phẩm, gỗ, cơ khí, khoáng sản và nhóm ngành hàng thương mại và dịch vụ… Một số doanh nghiệp đang đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Trong đó, có 02 doanh nghiệp mới đi vào hoạt động (Công ty TNHH Sheh Fung Screws Việt Nam - KCN Hàm Kiệm II, và dự án kho chứa thiết bị điện nước của Công ty cổ phần Phước Thạnh), 01 dự án mở rộng quy mô sản xuất (Công ty TNHH chế biến thủy hải sản Transpacific). Lũy kế đến nay các KCN thu hút được 87 dự án đầu tư, trong đó có 25 dự án đầu tư nước ngoài và 62 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 16.723,46 tỷ đồng và 206,33 triệu USD, diện tích đất cho thuê 250,97 ha, tỷ lệ lấp đầy đạt 33,58%.

2. Xây dựng

Giá trị sản xuất ngành xây dựng quý III/2024 (theo giá hiện hành) ước đạt 5.840,1 tỷ đồng, tăng 13,07% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 14.467,8 tỷ đồng, tăng 10,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 159,5 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 1,1%), giảm 22,63% so với cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 10.514,9 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 72,68%), tăng 11,98% so với cùng kỳ; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 188,2 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 1,3%), tăng 40,95% so với cùng kỳ; loại hình kinh tế khác ước đạt 3.605,1 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 24,92%), tăng 7,18% so với cùng kỳ.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng quý III/2024 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 3.346,5 tỷ đồng, tăng 11,33% so cùng kỳ năm trước. Ước 9 tháng năm 2024 đạt 8.341,2 tỷ đồng, 10,68% so với cùng kỳ. Trong đó công trình nhà ở đạt 2.298,1 tỷ đồng, giảm 1,15% so với cùng kỳ; công trình nhà không để ở đạt 1.752,1 tỷ đồng, tăng 46,45% so với cùng kỳ; Công trình kỹ thuật dân dụng 3.552,6 tỷ đồng, tăng 10,32% so với cùng kỳ; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 738,6 tỷ đồng, giảm 7,11% so với cùng kỳ.

Kết quả khảo sát xu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của các doanh nghiệp xây dựng quý III/2024 so quý II/2024, có 21,4% doanh nghiệp nhận định hoạt động thuận lợi hơn, 42,9% doanh nghiệp nhận định hoạt động ổn định và 35,7% doanh nghiệp nhận định hoạt động khó khăn hơn. Dự kiến quý IV/2024 so với quý III/2024, có 19% doanh nghiệp nhận định thuận lợi hơn; 54,8% nhận định ổn định và 26,2% dự báo khó khăn hơn. Chỉ số cân bằng chung đánh giá tổng quan xu hướng SXKD quý III/2024 so với quý II/2024 là -14,3%. Chỉ số cân bằng chung quý IV/2024 so với quý III/2024 là -7,2%.

3. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 9 tháng năm 2024 đạt kết quả khá. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là dự án trọng điểm được quan tâm đầu tư, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn thách thức.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 407,3 tỷ đồng, tăng 10,63% so với tháng trước và giảm 1,93% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 đạt 1.108,5 tỷ đồng, tăng 0,8% so với cùng kỳ; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 2.534,1 tỷ đồng, tăng 4,34% so với cùng kỳ và đạt 49,84% so với kế hoạch năm.

Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 354,8 tỷ đồng, tăng 10,65% so với tháng trước và tăng 0,68% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 đạt 962,9 tỷ đồng, tăng 2,9%; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 2.203,2 tỷ đồng, tăng 5,61%. Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 46,8 tỷ đồng, tăng 9,04% so với tháng trước và giảm 16,02% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 đạt 131,4 tỷ đồng, giảm 9,7%; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 304,4 tỷ đồng, giảm 0,24%. Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 5,8 tỷ đồng tăng 24,08% so với tháng trước và giảm 20,56% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 đạt 14,1 tỷ đồng, giảm 24,8%; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 26,4 tỷ đồng, giảm 29,2%. Trong vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh, vốn cân đối ngân sách tỉnh 9 tháng năm 2024 ước đạt 617 tỷ đồng, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước; vốn trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu ước đạt 658,8 tỷ đồng, giảm 23,6%; vốn nước ngoài (ODA) ước đạt 39,7 tỷ đồng, tăng 29,9% và vốn xổ số kiến thiết 887,7 tỷ đồng, tăng 38,8%.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn quý III/2024 ước đạt 13.103,7 tỷ đồng, tăng 10,14% so với cùng kỳ năm trước: Vốn nhà nước (chiếm 22,5% trong tổng nguồn vốn ) ước đạt 2.951,9 tỷ đồng, giảm 1,86%; vốn ngoài nhà nước (chiếm 70,9%) đạt 9.283,1 tỷ đồng, tăng 14,31%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (chiếm 6,6%) đạt 868,6 tỷ đồng, tăng 13,08%. Lũy kế 9 tháng năm 2024 vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn ước đạt 33.080,2 tỷ đồng, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước: Vốn nhà nước ước đạt 7.023,3 tỷ đồng, tăng 1,08%; vốn ngoài nhà nước đạt 23.784,4 tỷ đồng, tăng 12,33%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2.272,5 tỷ đồng, tăng 10,3%.

Đến ngày 16/9/2024, trên địa bàn tỉnh có 16 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư với tổng vốn đăng ký 4.720,6 tỷ đồng (cùng kỳ năm 2023 là 32 dự án (giảm 50%), tổng vốn đăng ký 35.349 tỷ đồng (giảm 7 lần). Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 1.635 dự án đầu tư còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đầu tư 1.770.870 tỷ đồng; có 19 dự án điều chỉnh; 12 dự án khởi công xây dựng; 11 dự án đi vào hoạt động kinh doanh; có 19 dự án thu hồi. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tình hình đăng ký kinh doanh (từ ngày 01/01 đến ngày 09/9/2024), có 510 doanh nghiệp thành lập mới (không tính đơn vị trực thuộc), giảm 4,13% so với cùng kỳ năm trước; tổng vốn đăng ký mới 5.042,8 tỷ đồng, giảm 15,47% so với cùng kỳ năm trước; giải thể 105 doanh nghiệp và 182 đơn vị trực thuộc, tăng 10,52% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 515 doanh nghiệp và 110 đơn vị trực thuộc, tăng 23,85% so với cùng kỳ; số lần đăng ký thay đổi 967 lần giảm 5,47% so với cùng kỳ, chuyển đổi loại hình 71 doanh nghiệp, tăng 10,93% so với cùng kỳ.

 Thông báo cảnh báo 76 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký, gỡ cảnh báo 15 trường hợp; thông báo vi phạm 48 trường hợp, gỡ vi phạm 01 trường hợp, thu hồi 06 doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký trên 01 năm.

III. Thương mại; giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại

Hoạt động thương mại của tỉnh trong 9 tháng đầu năm 2024 diễn ra ổn định với sức mua tăng, hàng hóa dồi dào, đáp ứng nhu cầu của người dân và giá cả thị trường nhìn chung ổn định. Hoạt động du lịch diễn ra khá nhộn nhịp với nhiều hoạt động văn hoá, thể thao và lễ hội thu hút đông đảo du khách. Dịch vụ lữ hành hoạt động ổn định và không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống tăng cường phục vụ cho người dân địa phương và khách du lịch. Hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ ổn định, đảm bảo nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa kịp thời; vận tải đường thủy cũng diễn ra thông suốt, phục vụ tốt nhu cầu đi lại của người dân và du khách, đặc biệt là trên tuyến đảo Phú Quý.

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ trong tháng đạt 9.531,0 tỷ đồng, tăng 0,24% so với tháng trước và tăng 13,89% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó dự ước tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 5.899,7 tỷ đồng, tăng 0,95% so với tháng trước và tăng 12,65% so với cùng kỳ năm trước (nhóm lương thực, thực phẩm dự ước đạt 2.900,9 tỷ đồng, tăng 0,23% so với tháng trước và tăng 11,55% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng may mặc dự ước đạt 220,5 tỷ đồng, tăng 1,00% so với tháng trước và tăng 0,01% so với cùng kỳ năm trước; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình dự ước 554,1 tỷ đồng, tăng 0,36% so với tháng trước và tăng 24,93% so với cùng kỳ năm trước và nhóm hàng hoá khác dự ước đạt 316,2 tỷ đồng, tăng 1,84% so với tháng trước và tăng 23,94% so với cùng kỳ năm trước). Doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành trong tháng ước đạt 2.418,4 tỷ đồng, tăng 2,96% so với tháng trước và tăng 17,39% so với cùng kỳ. Doanh thu các ngành dịch vụ khác trong tháng ước đạt 1.212,9 tỷ đồng, giảm 7,75% so với tháng trước và tăng 13,25% so với cùng kỳ năm trước (dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí ước đạt 698,5 tỷ đồng giảm 13,44% so với tháng trước và tăng 19,56% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ khác ước đạt 286,3 tỷ đồng, tăng 1,22% so với tháng trước và tăng 5,75% so với cùng kỳ năm trước).

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ quý III/2024 ước đạt 27.957,8 tỷ đồng, tăng 14,87% so với quý cùng kỳ năm trước. Trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 17.146,4 tỷ đồng, tăng 10,95% so với quý cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành ước đạt 7.134,0 tỷ đồng, tăng 23,94% so với quý cùng kỳ năm trước; doanh thu các ngành dịch vụ khác ước đạt 3.677,4 tỷ đồng, tăng 17,53% so với cùng kỳ năm trước.

Lũy kế 9 tháng năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 81.180 tỷ đồng, tăng 15,28% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 51.540 tỷ đồng, tăng 15,19% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành ước đạt 18.930 tỷ đồng, tăng 11,64% so với cùng kỳ; doanh thu các ngành dịch vụ khác ước đạt 10.710 tỷ đồng, tăng 22,86% so với cùng kỳ năm trước.

* Công tác quản lý thị trường

Trong 9 tháng năm 2024, tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả trên địa bàn tỉnh vẫn còn xảy ra. Từ ngày 15/12/2023 đến ngày 14/9/2024 đã kiểm tra 432 vụ, phát hiện và xử lý 193 vụ vi phạm. Tổng số tiền thu nộp ngân sách nhà nước là 4.562,034 triệu đồng (trong đó tiền xử phạt vi phạm hành chính là 3.186,25 triệu đồng, bán hàng hóa tịch thu là 1.173,478 triệu đồng và buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp là 202,306 triệu đồng).

2. Giá cả

2.1. Giá tiêu dùng (CPI)

CPI tháng 9/2024 giảm 0,54% so với tháng trước, tăng 2,82% so với cùng kỳ năm trước và tăng 1,85% so với tháng 12 năm trước. So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính có 06 nhóm hàng tăng giá: Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,28%; giáo dục tăng 0,28%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,23%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,12%; bưu chính viễn thông tăng 0,07%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,02%. Có 05 nhóm hàng giảm giá: giao thông giảm 3,24%; văn hóa, giải trí và du lịch giảm 1,00%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,61%; may mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,15%; đồ uống và thuốc lá giảm 0,07%.

CPI bình quân quý III/2024 tăng 0,58% so quý trước và tăng 4,20% so với cùng quý năm trước. So với bình quân quý cùng kỳ năm trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính hầu hết các nhóm hàng đều tăng giá: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 4,35%; đồ uống và thuốc lá tăng 3,86%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 2,58%; nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,75%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4,07%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,98%; giao thông tăng 0,09%; bưu chính viễn thông tăng 0,50%; giáo dục tăng 1,83%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 3,02%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 8,03%.

CPI bình quân 9 tháng năm 2024 tăng 4,21% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

* Các yếu tố làm tăng CPI trong 9 tháng năm 2024

- Chỉ số giá nhóm hàng ăn dịch vụ ăn uống bình quân 9 tháng năm 2024 tăng 5,72% so với bình quân cùng kỳ. Trong đó, glương thực tăng 19,79% (giá gạo tăng 19,39% do giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng trong dịp Lễ, Tết tăng cao); giá các mặt hàng thực phẩm tăng 2,38% (do giá các mặt hàng thịt gia súc, gia cầm, thịt chế biến, giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống, giá rau tươi các loại, giá quả tươi tăng cao); nhóm ăn uống ngoài gia đình tăng 7,78% (do giá lương thực, thực phẩm, giá gas đang mức cao; chi phí thuê nhân viên và nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng tác động làm cho chỉ số giá nhóm này tăng).

- Giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,76% so bình quân cùng kỳ, do giá xi măng, sắt thép, gạch, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và giá nhà thuê tăng. Trong nhóm này có 02 mặt hàng tăng cao: Chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 11,97% so bình quân cùng kỳ (ngày 04/5/2023 và ngày 09/11/2023 EVN điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân); chỉ số giá gas tăng 8,15% so bình quân cùng kỳ do giá gas trong nước điều chỉnh tăng theo biến động giá gas thế giới.

- Chỉ số giá nhóm thuốc dịch vụ y tế tăng 3,69% so bình quân cùng kỳ, tăng do giá dịch vụ y tế được điều chỉnh theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT của Bộ Y tế từ ngày 17/11/2023.

- Chỉ số giá nhóm giao thông tăng 3,42% so bình quân cùng kỳ, trong đó giá bảo dưỡng xe máy tăng 13,96% do giá phụ tùng thay thế và chi phí thuê thợ sửa chữa tăng.

- Theo Nghị định số 73/2024/NĐ-CP, ngày 30/6/2024 mức lương cơ sở được điều chỉnh tăng từ 1.800.000 đồng lên 2.340.000 đồng, theo đó bảo hiểm y tế cho cán bộ công chức và người lao động cũng được tăng theo, góp phần làm cho chỉ số nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 8,07% so bình quân cùng kỳ.

* Các yếu tố làm giảm CPI trong 9 tháng năm 2024

- Học phí giáo dục giảm 11,32% so bình quân cùng kỳ, do tại địa phương năm học 2023-2024 vẫn thực hiện thu tiền học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 09/5/2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

- Giá một số mặt hàng quả có múi giảm 5,05% so bình quân cùng kỳ, do nguồn cung địa phương dồi dào, thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giảm nên tác động giá bán giảm theo.

2.2. Tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; giá sản xuất công nghiệp và giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất

 Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý III/2024 giảm 0,62% so với quý trước và tăng 6,51% so với cùng kỳ năm trước. Sản phẩm nông nghiệp giảm 1,06%; sản phẩm lâm nghiệp tăng 0,34% và sản phẩm thủy sản tăng 0,36%.

Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý III/2024 tăng 0,11% so với quý trước; tăng 8,48% so với cùng kỳ năm trước, bình quân 9 tháng đầu năm 2024 tăng 9,20% so cùng kỳ 2023. Biến động giá sản xuất 4 nhóm sản phẩm công nghiệp quý III/2024: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng giảm 1,7% so với quý trước; chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,39% so với quý trước; chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 0,14% so với quý trước; chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,06% so với quý trước.

Chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý III/2024 giảm 0,47% so với quý trước và tăng 2,51% so với cùng kỳ năm trước, bình quân 9 tháng đầu năm 2024 tăng 2,95% so cùng kỳ. Trong đó, chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 0,88% so quý trước và giảm 2,56% so cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,14% so quý trước và tăng 5,11% so cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho xây dựng giảm 0,36% so quý trước và tăng 1,84% so cùng kỳ năm trước.

3. Hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh 9 tháng năm 2024 diễn ra khá sôi động, đặc biệt là các dịp Lễ, Tết và các ngày nghỉ cuối tuần. Lượng khách đến tăng so với cùng kỳ năm trước do nhiều yếu tố thuận lợi như thời tiết tốt, giao thông thuận tiện, nhiều gói tour khuyến mãi hấp dẫn và chất lượng dịch vụ được cải thiện. Các điểm đến nổi bật như NovaWorld Phan Thiết, đảo Phú Quý, các khu du lịch dã ngoại và cộng đồng đã thu hút đông đảo du khách. Đặc biệt, Novaworld Phan Thiết với nhiều khu vui chơi quy mô lớn như công viên Wonder Hill, Dino Park, Safari Cafe, Wonderland Water Park, Circus Land tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, hấp dẫn như: Lễ hội “Viber Fest 2024”; chuỗi hoạt động Summer Vibe Fest - Canival NovaWorld Phan Thiet; chuỗi sự kiện hè Summer Fest;…Bên cạnh đó tỉnh cũng tổ chức nhiều hoạt động thể dục, thể thao thu hút đông đảo vận động viên các nơi tham gia như: Giải đua Windsurf mở rộng lần thứ 23 “The 23rd Mui Ne Fun Cup 2024”; giải Việt Nam Festrival Bình Thuận 2024; Giải thi đấu thể hình nam - nữ bãi biển 2024; Lễ hội chèo Sup Phú Quý - Bình Thuận 2024; giải Stop and Run Marathon Bình Thuận 2024; Ngày Quốc tế Yoga tại Bình Thuận năm 2024; giải billiards carom 3 băng vô địch thế giới 2024;…

Lượt khách du lịch trong tháng ước đạt 935,3 ngàn lượt khách, tăng 1,95% so tháng trước và tăng 19,24% so với cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt gần 43,8 ngàn lượt khách, tăng 2,23% so với tháng trước và tăng gấp 2,52 lần so với cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 1.711,1 ngàn ngày khách, tăng 3,32% so với tháng trước và tăng 16,53% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 lượt khách ước đạt 2.740,6 lượt khách, tăng 23,96% so với quý cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt 131,6 ngàn lượt khách, tăng gấp 2,61 lần so với quý cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 4.989,6 ngàn ngày khách, tăng 19,76% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 lượng khách du lịch ước đạt 7.328,3 ngàn lượt khách, tăng 11,42% so với cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt 290,5 ngàn lượt khách, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 13.603,8 ngàn ngày khách, tăng 11,11% so với cùng kỳ năm trước.

Lượt khách quốc tế trong tháng ước đạt 28,8 ngàn lượt khách, giảm 2,37% so với tháng trước và tăng 49,25% so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 115,7 ngàn ngày khách, giảm 3,05% so với tháng trước và tăng 50,6% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 lượt khách quốc tế ước đạt 78,7 ngàn lượt khách, tăng 13,84% so với quý cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 344,2 ngàn ngày khách, tăng 23,53% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 293 ngàn lượt khách, tăng 53,01% so với cùng kỳ năm trước, ngày khách phục vụ ước đạt 1.196 ngàn ngày khách, tăng 54,73% so với cùng kỳ năm trước. Từ đầu năm 2024 đến nay, lượng khách quốc tế đến Bình Thuận tăng mạnh, chiếm tỷ trọng lớn: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Đức, Anh, Hoa Kỳ….

Doanh thu dịch vụ lưu trú trong tháng ước đạt 544,1 tỷ đồng, tăng 3,07% so với tháng trước và tăng 14,32% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.843,8 tỷ đồng, tăng 2,85% so với tháng trước và tăng 17,50% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 30,4 tỷ đồng, tăng 7,64% so với tháng trước và tăng 2,03 lần so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 1.624,4 tỷ đồng, tăng 16,33% so với quý cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 5.421,2 tỷ đồng, tăng 25,69% so với quý cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 88,2 tỷ đồng, tăng 90,73% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 4.455,4 tỷ đồng, tăng 7,38% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt gần 14.267,7 tỷ đồng, tăng 12,57% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 206,8 tỷ đồng, tăng 55,3% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng ước đạt 2.332,6 tỷ đồng tăng 3,15% so với tháng trước và tăng 14,16% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 ước đạt 6.768,5 tỷ đồng, tăng 16,06% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 18.630 tỷ đồng, tăng 8,47% so với cùng kỳ năm trước.

4. Xuất nhập khẩu

Trong bối cảnh kinh tế thế giới còn nhiều biến động phức tạp, xuất khẩu hàng hóa của tỉnh vẫn duy trì đà tăng trưởng 6,06% so với cùng kỳ, với các mặt hàng như sản phẩm gỗ, giày dép và hàng hóa khác có mức tăng đáng kể. Nhập khẩu cũng tăng 18,72%. Tuy nhiên, mặt hàng xuất khẩu chủ lực là thủy sản lại giảm 3,15% so với cùng kỳ năm trước.

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước đạt 72,8 triệu USD, tăng 7,65% so với tháng trước và tăng 15,43% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 20,77 triệu USD, tăng 4,95% so với tháng trước và tăng 18,71% so với cùng kỳ; nhóm hàng nông sản ước đạt 2,2 triệu USD, tăng 11,47% so với tháng trước và tăng 2,63 lần so với cùng kỳ; nhóm hàng hóa khác ước đạt 49,94 triệu USD, tăng 8,65% so với tháng trước và tăng 11,43% so với cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng năm 2024 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 551,6 triệu USD tăng 6,06% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhóm hàng thủy sản đạt 149,1 triệu USD giảm 3,15%; nhóm hàng nông sản đạt 11,69 triệu USD tăng 9,29% so với cùng kỳ; nhóm hàng hóa đạt 390,8 triệu USD tăng 9,96% so với cùng kỳ.

+ Xuất khẩu trực tiếp 9 tháng năm 2024 ước đạt 546,5 triệu USD, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, thị trường Châu Á tăng 9,44%; thị trường Châu Âu tăng 26,8%; thị trường Châu Mỹ giảm 7,75%. Một số nước xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn: Nhật Bản chiếm 32,5% (mặt hàng chủ yếu như tôm, cá, thủy sản khác, dệt may, giấy...), Đài Loan chiếm 10% (mặt hàng chủ yếu như bộ quần áo, thủy sản khác…), Mỹ chiếm 9,09% (mặt hàng chủ yếu như giày dép, hạt điều, thủy sản…), Campuchia chiếm 10,2% và Philippin 7,8% (chủ yếu là mặt hàng nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi), Trung Quốc 7,6% (mặt hàng chủ yếu như thủy sản, giày dép, các loại quặng…), Côlômbia 4,5% (mặt hàng giày dép, mực tươi).

+ Ủy thác xuất khẩu 9 tháng năm 2024 ước đạt 5,06 triệu USD, giảm 35,6% so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng ủy thác chủ yếu: hàng thủy sản (tăng 2,75%), hàng dệt may (44,4%).

- Kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 147,2 triệu USD, tăng 9,7% so với tháng trước và tăng 20,48% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.050,0 triệu USD, tăng 18,72% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu nhập khẩu thức ăn gia súc, hàng thủy sản, nguyên liệu dệt may, da giày, hạt điều thô….

5. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải 9 tháng năm 2024 diễn ra khá nhộn nhịp, đặc biệt những dịp nghỉ Lễ, Tết dài ngày và các ngày nghỉ cuối tuần. Vận tải đường thuỷ diễn ra thông suốt phục vụ cho du khách và người dân đảo Phú Quý.

- Vận tải hành khách:

+ Lượt khách vận chuyển trong tháng ước đạt 1.321,7 nghìn HK, tăng 4,44% so với tháng trước và tăng 19,71% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 131.199,8 nghìn HK.Km, tăng 6,69% so với tháng trước và tăng 20,31% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 3.577,3 nghìn HK, tăng 2,75% so với quý cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 370.392,2 nghìn HK.Km, tăng 9,19% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024, lượt khách vận chuyển ước đạt 11.428,4 nghìn HK, tăng 13,69% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 1.158.352,6 nghìn HK.Km, tăng 15,50% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng lượt khách vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.300,1 nghìn HK, tăng 4,5% so với tháng trước và tăng 19,82% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 3.513,5 nghìn HK, tăng 2,79% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 11.224,9 nghìn HK, tăng 13,70% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 21,6 nghìn HK, tăng 0,96% so với tháng trước và tăng 13,55% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 63,9 nghìn HK, tăng 0,88% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 203,5 nghìn HK, tăng 13,24% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 129.309,3 nghìn HK.Km, tăng 6,79% so với tháng trước và tăng 20,38% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 lượt khách luân chuyển ước đạt 364.902,0 nghìn HK.Km, tăng 9,30% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.139.585,7 nghìn HK.Km, tăng 15,49% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1.890,5 nghìn HK.Km, tăng 0,59% so với tháng trước và tăng 15,73% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 lượt khách luân chuyển ước đạt 5.490,3 nghìn HK.Km, tăng 1,96% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 18.766,9 nghìn HK.Km, tăng 16,49% so với cùng kỳ năm trước.

- Vận tải hàng hóa:

+ Khối lượng vận chuyển trong tháng ước đạt 630,6 nghìn tấn, giảm 1,25% so với tháng trước và tăng 5,43% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 54.080,8 nghìn tấn.Km, giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 18,1% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 1.843,2 nghìn tấn, tăng 6,41% so với quý cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 177.165,3 nghìn tấn.Km, tăng 30,50% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024, khối lượng vận chuyển ước đạt 5.294,8 nghìn tấn, tăng 8,08% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 479.628,4 nghìn tấn.Km, tăng 20,83% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng khối lượng vận chuyển hàng hóa đường bộ đạt 628,2 nghìn tấn, giảm 1,26% so với tháng trước và tăng 5,27% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 1.835,8 nghìn tấn, tăng 6,24% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 5.274,3 nghìn tấn, tăng 7,95% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hàng hóa đường thủy đạt 2,4 nghìn tấn, tăng 0,54% so với tháng trước, tăng 76,13% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 7,5 nghìn tấn, tăng 76,05% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 20,5 nghìn tấn, tăng 55,45% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hàng hóa đường bộ đạt 53.810,6 nghìn tấn.Km, giảm 0,82% so với tháng trước và tăng 17,90% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 khối lượng luân chuyển ước đạt 176.301,6 nghìn tấn.Km, tăng 30,31% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 477.330,8 nghìn tấn.Km, tăng 20,69% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hàng hóa đường thủy đạt 270,2 nghìn tấn.Km, tăng 3,33% so với tháng trước, tăng 78,96% so với cùng kỳ năm trước; quý III/2024 khối lượng luân chuyển ước đạt 863,7 nghìn tấn.Km, tăng 84,64% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 2.297,6 nghìn tấn.Km, tăng 59,70% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi trong tháng ước đạt 304,7 tỷ đồng, tăng 2,66% so với tháng trước và tăng 23,21% so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 ước đạt 885,8 tỷ đồng, tăng 4,17% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng đầu năm 2024 ước đạt 2.606 tỷ đồng, tăng 13,58% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.115,9 tỷ đồng, tăng 16,29% so với cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 1.136,1 tỷ đồng, tăng 13,38%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 348,3 tỷ đồng, tăng 6,53%; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 5,7 tỷ đồng, giảm 3,65% so với cùng kỳ năm trước.

- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua cảng quốc tế Vĩnh Tân trong tháng ước đạt 125 ngàn tấn; trong đó xuất cảng 75 ngàn tấn (tro bay, cát, xỉ than, muối xá, quặng), nhập cảng 50 ngàn tấn (xi măng, cao lanh, máy móc, muối xá). Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước đạt 1.023,98 ngàn tấn tăng 5,94% so cùng kỳ, trong đó xuất cảng 842,7 ngàn tấn (gồm tro bay, quặng, muối xá, cát, xỉ than); nhập cảng 181,28 ngàn tấn (muối xá, túi xi măng, cao lanh, máy móc).

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Ước thu ngân sách trong tháng đạt 600 tỷ đồng, giảm 19,88% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước 7.840 tỷ đồng, đạt 78,4% dự toán năm và giảm 0,98% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu nội địa 6.880 tỷ đồng, đạt 76,4% dự toán năm, giảm 1,68% so với cùng kỳ năm trước. Trong tổng thu ngân sách gồm: thu thuế, phí và thu khác 6.086,6 tỷ đồng, đạt 80,07% dự toán năm, giảm 6,43%; thu tiền nhà, đất 793,3 tỷ đồng, đạt 56,55% dự toán năm, tăng 61,04% (trong đó thu tiền sử dụng đất 511,9 tỷ đồng, đạt 42,66% dự toán năm, tăng 37,85% so với cùng kỳ năm trước); thu thuế xuất nhập khẩu 960 tỷ đồng, đạt 96,48% dự toán toán năm và tăng 4,28% so với cùng kỳ năm trước.

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu trong tháng ước đạt 250 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng năm 2024 thu 3.153,7 tỷ đồng, đạt 92,4% dự toán năm, tăng 10,36% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Phan Thiết 1.242,7 tỷ đồng (đạt 90,77% dự toán, tăng 28,72%); La Gi 305,4 tỷ đồng (đạt 184,23% dự toán, tăng 59,88%); Tuy Phong 255,5 tỷ đồng (đạt 75,82% dự toán, tăng 9,86%); Bắc Bình 275,2 tỷ đồng (đạt 69,67% dự toán, giảm 24,82%); Hàm Thuận Bắc 356,6 tỷ đồng (đạt 95,86% dự toán, tăng 9,48%); Hàm Thuận Nam 255,1 tỷ đồng (đạt 83,63% dự toán, giảm 4,28%); Tánh Linh 93,5 tỷ đồng (đạt 89,9% dự toán, giảm 7,69%); Đức Linh 153,5 tỷ đồng (đạt 121,86% 17 dự toán, tăng 1,99%); Hàm Tân 185,3 tỷ đồng (đạt 97,02% dự toán, giảm 9,21%) và Phú Quý 30,9 tỷ đồng (đạt 134,28% dự toán, tăng 23,79%).

            Chi ngân sách trong tháng ước thực hiện 1.354,8 tỷ đồng, tăng 53,58% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 ước 7.369,9 tỷ đồng, tăng 1,54% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Chi đầu tư phát triển 1.304,2 tỷ đồng, giảm 41,85 %; chi thường xuyên 6.064,8 tỷ đồng, tăng 20,95%.

2. Hoạt động tín dụng

Đến 31/8/2024, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 90.770 tỷ đồng, tăng 3,32% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 3,85%). Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 89.334 tỷ đồng, chiếm 98,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 58.458,6 tỷ đồng, chiếm 64,4% tổng dư nợ. Ước đến 30/9/2024, tổng dư nợ đạt là 91.364 tỷ đồng, tăng 4% so với cuối năm 2023. Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 52.129,9 tỷ đồng, chiếm 57,4% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 661 tỷ đồng, chiếm 0,73% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 17.599,5 tỷ đồng, chiếm 19,4% tổng dư nợ.

Lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 1,5-2,3%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 2,8-4,7%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 4,1-4,9%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân 5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7,5-12%/năm.

Đến 31/8/2024, vốn huy động ước đạt 58.702 tỷ đồng, tăng 1,25% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 5,81%); ước đến 30/9/2024, vốn huy động đạt 59.020 tỷ đồng, tăng 1,8% so với cuối năm trước. Đến 31/8/2024, nợ xấu nội bảng trên địa bàn là 3.623,8 tỷ đồng, chiếm 3,99% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 1,75% so với đầu năm.

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Tổng số tiền cho vay từ đầu chương trình 1.075,49 tỷ đồng/120 tàu. Doanh số thu nợ từ đầu chương trình 200,2 tỷ đồng. Dư nợ (nội bảng) 50,36 tỷ đồng/19 tàu (trong đó, cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ 8,61 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ 41,74 tỷ đồng). Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ 14,49 tỷ đồng/14 tàu, nợ ngoại bảng 824,9 tỷ đồng/88 tàu, số tàu đã trả hết nợ 13 tàu.

Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 4.844,4 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đạt 210,7 tỷ đồng cho vay hỗ trợ việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đạt 1.121,3 tỷ; cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 736,1 tỷ đồng; cho vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn đạt 217,6 tỷ đồng,... Về chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP chưa có phát sinh số liệu cho vay chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản đến thời điểm 31/8/2024, dư nợ cho vay đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản đạt 65 tỷ đồng/736 khách hàng (với lãi suất cho vay ưu đãi 7%-8,5%/năm).

Chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn (theo Thông tư số 02/2023/TT-NHNN và 06/2024/TT-NHNN), đến 31/8/2024, dư nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 1.830,6 tỷ đồng/98 khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (trong đó: gốc 1.697 tỷ đồng, lãi 133,6 tỷ đồng); lũy kế giá trị nợ được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ 2.590,5 tỷ đồng/144 lượt khách hàng được cơ cấu lại thời hạn trả nợ (trong đó gốc 2.375,8 tỷ đồng, lãi 214,9 tỷ đồng).

Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt, không có trường hợp đầu cơ, tích trữ gây rối loạn thị trường. Doanh số mua bán ngoại tệ lũy kế đến 31/8/2024 đạt 315,4 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 119,5 triệu USD.

Đến 31/8/2024, trên địa bàn có 207 máy ATM, bằng so với đầu năm và 1.800 máy POS, giảm 48 máy so với đầu năm, các máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đến nay tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn là khoảng 95% và tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động có đăng ký sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử đạt khoảng 73%.

V. Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa - Thể dục thể thao

1.1 Hoạt động văn hóa

- Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tuyên truyền kỷ niệm 79 năm ngày cách mạng Tháng tám thành công và ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; 79 năm ngày truyền thống ngành Văn hóa; 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và 55 năm ngày mất của Người; 80 năm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và 35 năm ngày hội Quốc phòng toàn dân. Biểu diễn 08 buổi văn nghệ tuyên truyền với kịch bản “Hụi ơi là hụi” và 64 buổi chiếu phim lưu động phục vụ nhân dân các huyện và các trường học tại thành phố Phan Thiết thu hút khoảng 19.200 lượt người xem.

- Hoạt động thư viện: Cấp 122 thẻ (thiếu nhi 24 thẻ), 201.162 lượt bạn đọc (tại thư viện 1.468 lượt (thiếu nhi 380 lượt), truy cập website 195.341 lượt, qua youtube 1.932 lượt, khai thác sách trực tuyến 451 lượt, truy cập Fanpage 1.820 lượt, sử dụng phòng máy tính 150 lượt; luân chuyển 2.948 lượt sách, tài liệu (thư viện 2.509 lượt (thiếu nhi 1.195 lượt), tuyên truyền qua website 439 lượt). Sưu tầm 136 tin, bài thông tin tư liệu Bình Thuận; trưng bày, giới thiệu 34 bản sách mới, 221 tài liệu tuyên truyền; Biên soạn 01 tập thông tin chuyên đề kỷ niệm 79 năm ngày cách mạng Tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bổ sung 436 bản sách; số hóa 25.631 trang/195 tài liệu; đóng 24 tập báo, tạp chí; xử lý kỹ thuật 240 bản sách; thu hồi 1.545 bản sách.

- Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Trong tháng đã đón 38.674 lượt khách đến tham quan (trong đó có 745 lượt khách quốc tế); phục vụ 21 lễ dâng hương viếng Bác, sinh hoạt chuyên đề. Sưu tầm, tiếp nhận 03 hiện vật; chuẩn bị các nội dung liên quan tổ chức Lễ hội Katê tại di tích tháp Pô Sah Inư năm 2024 kết hợp Lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc công nhận bảo vật quốc gia - đợt 12, năm 2023 đối với Linga vàng phát hiện tại tháp Pô Dam (xã Phú Lạc, huyện Tuy Phong).

1.2. Hoạt động thể thao

- Thể dục thể thao quần chúng: Tổ chức giải thể thao các dân tộc thiểu số tỉnh Bình Thuận lần thứ I năm 2024 với sự tham gia của 174 vận động viên thuộc 7 đoàn đến từ các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh; giải Bóng đá vô địch tỉnh Bình Thuận Tiger Cup năm 2024 với 400 vận động viên của 17 đội bóng đá trên địa bàn tỉnh tham gia; với huyện Tuy Phong tổ chức giải Vovinam trẻ và vô địch tỉnh Bình Thuận năm 2024 với 417 vận động viên của 23 đơn vị trong tỉnh tham gia.

- Thể thao thành tích cao: Cử đội tuyển Taekwondo, Bóng rổ nữ Năng khiếu, Canoeing, Vovinam, Bơi - Lặn, Điền kinh, Karate, Judo… tham dự 4 các giải cụm, khu vực, quốc gia, đạt 48 huy chương (09HCV, 13HCB, 26HCĐ) (tính đến nay, đã tham gia 52/83 các giải thể thao với 245/133 huy chương, đạt 184% so với chỉ tiêu (55HCV, 71HCB, 119HCĐ)).

2. Giáo dục và đào tạo

Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống; đổi mới, nâng cao chất lượng, nội dung, cải tiến phương pháp dạy và học. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục hướng nghiệp, thực hiện phân luồng học sinh sau trung học cơ sở.

Trong 9 tháng đầu năm, tổ chức thành công Hội thi “Giai điệu tuổi hồng” lần thứ XIII - Năm 2024; Hội khỏe Phù Đổng lần thứ XVI nhằm để phát huy tinh thần rèn luyện thể thao học đường của học sinh tỉnh nhà, đồng thời tuyển chọn đội tuyển vận động viên tham gia Hội khỏe Phù Đổng cấp toàn quốc tại thành phố Hải Phòng. Tham gia Cuộc thi Khoa học kĩ thuật cấp Quốc gia dành cho học sinh trung học năm học 2023-2024 tại Bắc Giang, đạt 01 giải Tư. Tổ chức triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024 bảo đảm an toàn trường học. Duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; duy trì chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1; phổ cập giáo dục bắt buộc đối với cấp tiểu học.

Tổ chức thành công Kỳ thi chọn học sinh giỏi lớp 9 THCS cấp tỉnh năm học 2023-2024, với kết quả: Công nhận 717 học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏi lớp 9 THCS cấp tỉnh năm học 2023 – 2024 tỉnh Bình Thuận; trong đó có 15 giải Nhất, 94 giải Nhì và 608 giải Ba; Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT công lập năm học 2024-2025; Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 Trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh năm học 2024-2025 và Kỳ thi tốt nghiệp THPT tỉnh Bình Thuận năm 2024 vào các ngày theo đúng Quy chế thi và hướng dẫn thi hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

3. Y tế

- Phòng chống sốt xuất huyết và các bệnh truyền nhiễm khác: Trong tháng có 244 ca mắc sốt xuất huyết, tăng 55,4% so tháng trước và giảm 42,7% so cùng kỳ năm trước; 04 ca sốt huyết nặng; không có ca tử vong; lũy kế từ đầu năm đến nay có 1.071 ca mắc; 25 ca sốt xuất huyết nặng; chưa ghi nhận trường hợp tử vong. Bệnh tay chân miệng: có 68 ca mắc, không có ca tử vong; lũy kế từ đầu năm đến nay có 631 ca mắc, chưa ghi nhận trường hợp tử vong. Bệnh dại: trong tháng không có trường hợp mắc và tử vong do bệnh dại; lũy kế từ đầu năm đến nay, có 08 trường hợp mắc/(nghi) và tử vong do dại.

- Tiêm chủng mở rộng: Số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các mũi vắc xin phòng bệnh là: 2.026/20.171 trẻ, đạt tỷ lệ 10,04%. Số phụ nữ có thai được tiêm đủ mũi vắc xin uốn ván (UV2+): 1.708/20.191 phụ nữ có thai, đạt 8,46%. Lũy kế từ đầu năm đến nay, tỷ lệ trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ các mũi vắc xin 12.989/20.171 trẻ, đạt 64,36%; tỷ lệ phụ nữ có thai được tiêm đủ mũi phòng ngừa uốn ván sơ sinh (UV2+) là 10.901/20.191 PNCT, đạt 53,99 %.

- Công tác phòng chống Phong: Trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc bệnh phong mới, lũy kế từ đầu năm đến nay không phát hiện bệnh nhân phong mới, lũy kế số bệnh nhân đang quản lý tại tỉnh là 352 bệnh.

- Công tác phòng chống Lao: Trong tháng, ghi nhận tổng số lượt khám 648 lượt; số bệnh nhân lao thu dung điều trị 138 bệnh nhân; số bệnh nhân lao AFB (+) phát hiện mới trong tháng 91 bệnh nhân. Lũy kế từ đầu năm đến nay có 878 bệnh nhân lao thu dung điều trị và 633 bệnh nhân lao AFB (+).

- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Trong tháng ghi nhận 07 ca nhiễm HIV; 01 ca chuyển AIDS, không có ca tử vong. Lũy kế từ trước đến nay có 1.841 ca nhiễm HIV, 1.126 ca nhiễm HIV chuyển AIDS; 553 4 ca tử vong do AIDS.

- Công tác khám chữa bệnh: Trong tháng tổng số lượt khám bệnh, chữa bệnh tại 07 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tuyến tỉnh 84.450 lượt, số bệnh nhân điều trị nội trú: 12.244 bệnh; công suất sử dụng giường bệnh trung bình đạt: 94,28%.

4. Khoa học - công nghệ; hoạt động thông tin truyền thông

Hoạt động khoa học và công nghệ tiếp tục được chú trọng, tập trung hỗ trợ các hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và các hoạt động thúc đẩy sáng kiến. Trong 9 tháng năm 2024, cấp 01 giấy chứng nhận doanh nghiệp khoa học và công nghệ (đến nay, toàn tỉnh có 03 doanh nghiệp khoa học và công nghệ); tăng cường hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong việc tạo lập, quản lý và phát triển tài sản trí tuệ. Đẩy mạnh triển khai nâng cao chỉ số đổi mới sáng tạo của tỉnh Bình Thuận.

Công tác thông tin, tuyên truyền của báo chí kịp thời, đầy đủ phản ánh diễn biến đời sống chính trị, kinh tế - xã hội trong tỉnh, biểu dương điển hình tiên tiến, đồng thời phát hiện và phản ánh các vấn đề bất cập để kịp thời chấn chỉnh. Công tác tuyên truyền, dân vận được tăng cường, duy trì phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ chức với Mặt trận và các đoàn thể, góp phần tạo đồng thuận xã hội, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Đẩy nhanh tiến độ triển khai chuyển đổi số, phát triển chính quyền số, kinh tế số và xã hội số....

Trong 9 tháng năm 2024, đã phát triển 55 trạm BTS (15 trạm Vina; 36 trạm Viettel; 04 trạm Mobi) trong đó 20 trạm BTS (08 trạm Vina; 08 trạm Viettel; 04 trạm Mobi) trên tuyến đường cao tốc qua địa bàn tỉnh. Hiện nay, toàn tỉnh có 3.998 trạm BTS, trong đó 07 trạm 5G của Viettel tại Phan Thiết. Chất lượng dịch vụ viễn thông, truyền hình cáp ngày càng nâng cao, đảm bảo hoạt động phát triển thương mại, quảng bá phát triển dịch vụ của các doanh nghiệp.

5. Lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội

Trong tháng, đã giải quyết việc làm cho 2.044 lao động. Lũy kế 9 tháng năm 2024 đã giải quyết việc làm cho 19.363 lao động, đạt 96,81% so với kế hoạch và tăng 6,96% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm 2.892 lao động, đạt 206,6% so với kế hoạch năm.

Đã tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp trong tháng cho 769 người. Lũy kế 9 tháng năm 2024 tuyển mới đào tạo nghề nghiệp 9.182 người, đạt 91,82% so với kế hoạch và tăng 54,03% so với cùng kỳ năm trước.

Quỹ Đền ơn đáp nghĩa lũy kế 9 tháng năm 2024 (tính đến ngày 10/9/2024) đã vận động được tổng số tiền 9,1 tỷ đồng, đạt 152,1% so với kế hoạch năm, trong đó: Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cấp tỉnh 2,6 tỷ đồng, đạt 173,1%; Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cấp huyện 6,5 tỷ đồng, đạt 145,1%. Quỹ Bảo trợ trẻ em lũy kế 9 tháng năm 2024 đã vận động được tổng số tiền 2,1 tỷ đồng, đạt 103,24% so với kế hoạch năm.

Công tác chính sách người có công được triển khai chu đáo, đảm bảo an sinh xã hội và chi trả trợ cấp kịp thời, đúng chế độ. Các hoạt động tri ân người có công được tổ chức ý nghĩa, bao gồm thăm tặng quà Tết Nguyên đán, tặng quà cho 73 chiến sĩ và gia đình thân nhân liệt sĩ, chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ; thăm hỏi 300 gia đình liệt sĩ và người có công gặp khó khăn, bệnh tật. Tổ chức cho 666 người có công điều dưỡng tại các tỉnh Bà Rịa Vũng tàu, Nha Trang, Tây Ninh, Bến Tre, Vĩnh Long và Đà Lạt; hỗ trợ 08 nhà ở cho người có công; đưa 05 người có công tiêu biểu dự Hội nghị biểu dương người có công tiêu biểu tại Hà Nội do Trung ương tổ chức. Trao thiếp mừng thọ của Chủ tịch nước cho 15 người cao tuổi tròn 100 tuổi tại 05 huyện Tánh Linh, Đức Linh, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân và thị xã La Gi...

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 1.548 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý (tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 393/5 nữ; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 662 người; 435 người quản lý tại nơi cư trú; trong tại tạm giam 02 người, nhà tạm giữ 56 người).

6. Chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số

Các chương trình, chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số đã được triển khai hiệu quả. Các hoạt động thăm hỏi, chúc tết Đầu lúa, tết Nguyên đán Giáp Thìn, tết Ramưwan đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến đời sống tinh thần của đồng bào. Tỉnh đã hỗ trợ sản xuất, cung ứng kịp thời vật tư, hàng hóa, tạo điều kiện cho 862 hộ dân tộc thiểu số đăng ký đầu tư với tổng diện tích 1.500 ha và số tiền 7,56 tỷ đồng. Bên cạnh đó, hoạt động thu mua nông sản cũng được chú trọng, với gần 15 tấn mủ cao su và trên 540 tấn bắp lai đã được thu mua, giúp bà con ổn định sản xuất và tăng thu nhập. Ngoài ra, tỉnh cũng đã hỗ trợ 1.027,6 triệu đồng cho 69 học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số.

7. Hoạt động bảo hiểm

Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng.

Tính đến ngày 31/8/2024, toàn tỉnh có 98.942 người tham gia BHXH bắt buộc (tăng 3,7% so với cùng kỳ năm trước); có 90.453 người tham gia BHTN (tăng 4,1%); số người tham gia BHXH tự nguyện 9.253 người (giảm 1,8%); số người tham gia BHYT 1.076.388 người, bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.551 người (tăng 1,5%). Đã xét duyệt giải quyết cho 49.095 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN tăng 9% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: 561 người hưởng chế độ BHXH dài hạn, 7.075 người hưởng trợ cấp thất nghiệp, 10.711 người hưởng trợ cấp BHXH một lần, 30.748 lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức - phục hồi sức khỏe).

Ước đến 30/9/2024 xét duyệt và giải quyết cho 55.398 lượt người hưởng chế độ BHXH, BHTN (Trong đó: 675 người hưởng các chế độ BHXH dài hạn; 11.969 người hưởng chế độ BHXH một lần; 34.692 lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức - phục hồi sức khỏe và 9.062 người hưởng trợ cấp BHTN);  1.091.274 người tham gia BHYT; tỷ lệ bao phủ BHYT ước đạt 93,69% dân số (bao gồm người dân làm việc, học tập ngoài tỉnh).

Tính đến ngày 31/8/2024, tổng số thu 2.115,4 tỷ đồng, tăng 18,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN là 215,5 tỷ đồng, tăng 7,23% so với cùng kỳ năm trước; tỷ lệ chậm đóng phải thu 6,67% so với dự toán thu, cao hơn 1,8% so chỉ tiêu giảm tiền chậm đóng BHXH; tỷ lệ chậm đóng phải tính lãi 3,68%. Ước đến 30/9/2024, tổng số thu đạt 2.410,9 tỷ đồng; tỷ lệ chậm đóng 4,87% trên tổng dự toán thu; tỷ lệ chậm đóng phải tính lãi 3,77%.

8. Tai nạn giao thông (từ 15/8 - 14/9/2024)

Trong tháng xảy ra 53 vụ tai nạn giao thông (01 vụ đường sắt), giảm 07 vụ so với tháng trước và tăng 32 vụ với cùng kỳ năm trước; bị thương 36 người, giảm 05 người so với tháng trước và tăng 17 người so với cùng kỳ năm trước; số người chết 23 người (đường sắt 01 người chết), tăng 08 người so với tháng trước và tăng 15 người so với cùng kỳ năm trước. Quý III/2024 tai nạn giao thông xảy ra 146 vụ (trong đó có 2 vụ đường sắt), tăng 97 vụ so với cùng kỳ năm trước; bị thương 113 người, tăng 108 người so với cùng kỳ năm trước; số người chết 56 người, tăng 40 người so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 9 tháng năm 2024 toàn tỉnh xảy ra 448 vụ (trong đó có 04 vụ đường sắt), tăng 264 vụ so với cùng kỳ năm trước; bị thương 398 người, tăng 274 người so với cùng kỳ năm trước; số người chết 130 người (đường sắt 03 người chết), tăng 13 người so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, 23 vụ nghiêm trọng, 09 vụ ít nghiêm trọng và 21 vụ va chạm; Quý III/2024 không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng, 02 vụ rất nghiêm trọng, 52 vụ nghiêm trọng, 21 vụ ít nghiêm trọng và 73 vụ va chạm. Lũy kế 9 tháng năm 2024 không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; có 03 vụ rất nghiêm trọng; 130 vụ nghiêm trọng, 59 vụ ít nghiêm trọng và 256 vụ va chạm. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát.

Chia theo các huyện, thị xã, thành phố 9 tháng năm 2024: Phan Thiết xảy ra 113 vụ tai nạn giao thông, 116 người bị thương, 13 người chết; La Gi xảy ra 18 vụ tai nạn giao thông, 19 người bị thương, 07 người chết; Tuy Phong xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, 21 người bị thương, 12 người chết; Bắc Bình xảy ra 40 vụ tai nạn giao thông, 33 người bị thương, 11 người chết; Hàm Thuận Bắc xảy ra 60 vụ tai nạn giao thông, 37 người bị thương, 29 người chết; Hàm Thuận Nam xảy ra 47 vụ tai nạn giao thông, 50 người bị thương, 15 người chết; Tánh Linh xảy ra 46 vụ tai nạn giao thông, 56 người bị thương, 11 người chết; Đức Linh xảy ra 40 vụ tai nạn giao thông, 31 người bị thương, 11 người chết; Hàm Tân xảy ra 34 vụ tai nạn giao thông, 25 người bị thương, 16 người chết; Phú Quý xảy ra 05 vụ tai nạn giao thông, 10 người bị thương, 01 người chết.

9. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 13 vụ thiên tai (tăng 07 vụ so với tháng trước và tăng 10 vụ so với cùng kỳ năm trước) do mưa lớn kèm theo lốc xoáy, lũ, ngập lụt, sạt lỡ làm 02 người chết, 01 người bị thương; tốc mái 31 căn nhà; thiệt hại bị ngập 1.329,52 ha lúa, diện tích hoa màu và diện tích cây lâu năm 1.100,26 ha, 20 con gà bị cuốn trôi và thiệt hại một số tài sản khác, ước giá trị thiệt hại 12.599,37 triệu đồng. Quý III/2024 xảy ra 24 vụ (giảm 04 vụ so cùng kỳ năm trước), làm tốc mái 48 căn nhà; có 2.078,52 ha lúa bị ngập; làm hư hại 1.109,35 ha hoa màu và diện tích cây lâu năm và thiệt hại tài sản khác; ước tổng giá trị thiệt hại ban đầu 20.607,37 triệu đồng. Lũy kế 9 tháng năm 2024 xảy ra 37 vụ (giảm 4 vụ so cùng kỳ năm trước), ước thiệt hại 28.415,37 triệu đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 04 vụ cháy, tăng 03 vụ so với tháng trước và bằng so với cùng kỳ năm trước (trong đó có 01 vụ cháy xe tải tại Km171+300 cao tốc Phan Thiết - Vĩnh Hảo, thuộc địa phận xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận không thiệt hại về người và chưa thống kê thiệt hại về tài sản); ước thiệt hại 73 triệu đồng. Quý III/2024 xảy ra 09 vụ cháy, 01 vụ nổ, giảm 01 vụ cháy và tăng 01 vụ nổ so với cùng kỳ năm trước; thiệt hại 81 triệu đồng. Lũy kế 9 tháng năm 2024 xảy ra 38 vụ cháy (trong đó: 01 vụ nổ), tăng 23 vụ so cùng kỳ năm trước, ước thiệt hại 2.072,54 triệu đồng.

- Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 02 vụ vi phạm môi trường, giảm 05 vụ so với tháng trước và tăng 01 vụ so với cùng kỳ năm trước; xử phạt 447 triệu đồng. Quý III/2024 đã phát hiện 10 vụ vi phạm môi trường, giảm 03 vụ so với quý trước và tăng 06 vụ so với cùng kỳ năm trước; xử phạt 1.004 triệu đồng. Lũy kế 9 tháng năm 2024 xảy ra 30 vụ (tăng 11 vụ so cùng kỳ năm trước), xử phạt 1.579,2 triệu đồng.

* Đánh giá chung:

Trong điều kiện vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 9 tháng năm 2024 vẫn đạt được kết quả tích cực trên một số mặt, cụ thể:

Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) 9 tháng đầu năm 2024 dự ước tăng 6,3%, động lực chính trong tăng trưởng 9 tháng đầu năm là khu vực công nghiệp xây dựng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực phi nông lâm thủy sản.

Sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng trưởng ổn định; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được kiểm soát, không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm. Sản lượng chăn nuôi, khai thác, nuôi trồng thủy sản tăng so cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi được triển khai tích cực; quản lý bảo vệ rừng, nguồn lợi thủy sản, xây dựng nông thôn mới được tập trung thực hiện, chống khai thác IUU (đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra trường hợp tàu cá và ngư dân vi phạm bị nước ngoài bắt giữ). Các chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số được thực hiện tốt.

Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) tăng so với cùng kỳ năm trước. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng so cùng kỳ. Công tác giải ngân vốn đầu tư công được tập trung quyết liệt ngay từ đầu năm; định kỳ hằng tháng, đôn đốc, rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các dự án trọng điểm. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách.

Các ngành thương mại và dịch vụ tiếp tục duy trì sự tăng trưởng; trong đó hoạt động du lịch phục hồi mạnh mẽ; hoạt động vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng so cùng kỳ...

Thu ngân sách nhà nước đã có nhiều cố gắng. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, thực hiện tốt; không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Chất lượng giáo dục, đào tạo được duy trì. Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật cơ bản đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hóa và giải trí của nhân dân. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chăm lo cho các đối tượng chính sách, người nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội ở một số lĩnh vực trong 9 tháng năm 2024 vẫn còn khó khăn, hạn chế. Đó là:

Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn do tiếp tục chịu ảnh hưởng bởi tình hình kinh tế - chính trị trên thế giới. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm, giải thể và tạm ngừng hoạt động tăng so cùng kỳ.

Thu ngân sách vẫn gặp nhiều khó khăn, một số nguồn thu chủ lực giảm như thu từ các nhà máy nhiệt điện, đặc biệt là thu từ đất đang bị giảm sâu. Tăng trưởng tín dụng trên địa bàn chưa cao, nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn nợ xấu có xu hướng tăng.

Tiến độ các dự án, công trình trọng điểm, quan trọng còn chậm; nhiều vướng mắc trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng chưa được tháo gỡ, kéo theo tiến độ giải ngân vốn đầu tư công rất thấp.

Tình hình an ninh, trật tự xã hội còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp; số vụ và số người bị thương trong tai nạn giao thông vẫn còn tăng.

CTK Bình Thuận

-----

 

Kèm file: So lieu KTXH 9 thang nam 2024.pdf




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/