TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2024 tỉnh Bình Thuận

Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực còn nhiều biến động khó lường, nền kinh tế trong nước vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức đã tác động đến phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên qua các số liệu thống kê cho thấy, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh 6 tháng đầu năm 2024 đạt được nhiều kết quả tích cực trên các lĩnh vực.

 

Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2024 dự ước tăng 7,10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: khu vực nông, lâm, thủy sản tăng 3,75% (nông nghiệp tăng 1,36%, lâm nghiệp tăng 9,12%, thủy sản tăng 8,06%); khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 12,06% (công nghiệp tăng 12,29%, xây dựng tăng 10,82%); khu vực dịch vụ tăng 6,1%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,40%. Thể hiện trên các lĩnh vực sau:

I. Nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tình hình sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản duy trì ổn định. Vụ đông xuân nguồn nước được đảm bảo, thuận lợi cho trồng trọt; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi cơ bản được kiểm soát, không xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm; tuy nhiên bắt đầu vụ hè thu thời tiết nắng nóng, nhiệt độ tăng cao dẫn đến tình hình khô hạn, thiếu nước xảy ra. Ngành chăn nuôi tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực từ chăn nuôi nhỏ lẻ, hộ gia đình sang hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường. Sản lượng thủy sản tăng do ngư trường thuận lợi; bên cạnh đó giá xăng dầu giảm góp phần các tàu thuyền tăng cường ra khơi khai thác, đánh bắt.

1. Trồng trọt

* Cây hàng năm

- Sản xuất vụ đông xuân: Sơ bộ diện tích gieo trồng đạt 50.615,7 ha, giảm 0,03% so với cùng kỳ năm trước, trong đó:

+ Cây lương thực: Sơ bộ diện tích đạt 42.839,4 ha, tăng 0,18%, trong đó: cây lúa đạt 39.958,8 ha, tăng 1,4%, năng suất đạt 67,8 tạ/ha, tăng 3,3 tạ/ha; sản lượng sơ bộ 270.967,1 tấn, tăng 2,85%. Nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất, tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới và hạn chế sâu bệnh đã thực hiện chuyển đổi 3.289 ha đất lúa kém hiệu quả chưa chủ động được nguồn nước sang trồng các cây ngắn ngày khác (trong đó 1.545 ha cây bắp, 362 ha cây rau các loại, 592 ha cây đậu các loại,188 ha trồng dưa hấu….); diện tích chuyển đổi tập trung chủ yếu tại các huyện Tánh Linh, huyện Đức Linh và Hàm Thuận Bắc. Công tác xã hội hóa giống lúa vụ đông xuân 2024 thực hiện được 749 ha (Tuy Phong 47 ha, Hàm Thuận Bắc 390 ha, Tánh Linh 312 ha), tỷ lệ giống lúa xác nhận hơn 80% trên địa bàn tỉnh.

+ Nhóm cây chất bột (chủ yếu là khoai lang), diện tích sơ bộ 139,9 ha, giảm 37%; năng suất đạt 62,3 tạ/ha, giảm 0,4 tạ/ha; sản lượng đạt 871,6 tấn, giảm 37,4%. diện tích giảm chủ yếu do chuyển sang trồng rau.

 

+ Nhóm cây có hạt chứa dầu (chủ yếu là cây đậu phụng), diện tích gieo trồng đạt 1.118,4 ha, giảm 13,13%; năng suất 23,6 tạ/ha, giảm 1 tạ/ha; sản lượng 2.642,8 tấn, giảm 16,6% (giảm chủ yếu ở huyện Tánh Linh, huyện Đức Linh do chuyển diện tích sang trồng rau và cây khác). Cây mè, diện tích đạt 67 ha, tăng 31,4%, do hiệu quả kinh tế cao người dân chuyển sang trồng nhiều trong vụ, tập trung ở huyện Bắc Bình.

+ Nhóm cây rau, đậu các loại và hoa: Diện tích gieo trồng sơ bộ đạt 5.684,5 ha, tăng 1,9%, trong đó rau các loại diện tích đạt 3.431,5 ha, tăng 8%; năng suất đạt 112,5 tạ/ha, sản luợng đạt 38.597 tấn, tăng 2,1%.

- Tiến độ sản xuất vụ hè thu năm 2024: Do mùa mưa đến muộn nên tiến độ xuống giống vụ hè thu năm 2024 chậm hơn so với cùng kỳ năm trước. Ước tính đến ngày 15/6/2024 toàn tỉnh xuống giống vụ hè thu đạt 49.285,5 ha, giảm 14,89% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: cây lúa đạt 36.272,1 ha, giảm 10,29%; cây bắp đạt 3.093,2 ha, giảm 43,19%; cây lang đạt 186,5 ha, giảm 36,39%; cây đậu phụng đạt 1.608,9 ha, giảm 27,02%; cây rau các loại 1.801,9 ha, giảm 41,34%; cây đậu các loại đạt 2.686,6 ha, giảm 15,82%, cây hàng năm khác 402,3 ha giảm 39,96%.

* Cây lâu năm

Trong 6 tháng đầu năm 2024 các địa phương tập trung thu hoạch và chăm sóc diện tích hiện có, bên cạnh đó đã chuyển đổi một số diện tích cây lâu năm kém hiệu quả sang trồng mới các loại cây mang lại giá trị kinh tế cao hơn; giá đầu ra một số mặt hàng cây lâu năm tăng so với cùng kỳ năm trước. Tổng diện tích ước đạt 108.537 ha, tăng 0,14% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: diện tích cây công nghiệp ước đạt 66.568,7 ha, giảm 1,2%; cây ăn quả 41.372,5 ha, tăng 2,4%; các loại cây lâu năm khác 595,7 ha, giảm 2,7%; cụ thể một số cây trồng chính như sau:

         - Cây thanh long: Diện tích ước đạt 26.550 ha, giảm 3,35%; diện tích giảm ở các huyện Bắc Bình 373 ha, Hàm Thuận Bắc 340 ha, Hàm Thuận Nam 180 ha, Hàm Tân 74 ha; riêng thành phố Phan Thiết tăng 47 ha, thị xã La Gi tăng 14,4 ha; các huyện còn lại diện tích thay đổi không đáng kể. Sản lượng 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 325.000 tấn, giảm 1,2 so với cùng kỳ năm trước. Tính đến thời điểm 15/6/2024, toàn tỉnh có 8.593 ha thanh long được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.

- Cây điều: Diện tích ước đạt 17.022,5 ha, giảm 4,48%; diện tích giảm nhiều nhất ở huyện Đức Linh, do một số vườn điều già cỗi ở các xã Đông Hà, Trà Tân, Tân Hà, Đa Kai, Mê Pu cho năng suất thấp người dân chuyển sang trồng các loại cây ăn quả khác như sầu riêng, xoài, cao su...; huyện Bắc Bình giảm ở xã Hòa Thắng và xã Phan Rí Thành do diện tích trồng trên đất cát bạc màu, lão hóa, năng suất thấp người dân chặt bỏ; Hàm Thuận Bắc giảm chủ yếu ở xã La Dạ do chuyển sang trồng sầu riêng. Sản lượng 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 12.700 tấn, giảm 2,8% so với cùng kỳ năm trước.

- Cây cao su: Diện tích đạt 45.450 ha, tăng 0,54%; tăng ở huyện Đức Linh do chuyển đổi một số diện tích cây điều không hiệu quả sang; huyện Tánh Linh do trồng mới. Sản lượng 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 15.500 tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước. Hiện một số vườn đang bắt đầu thu hoạch, nhu cầu nhập khẩu cao su của các nước trong 6 tháng đầu năm có dấu hiệu khả quan, giá bán mủ cao su tăng nhẹ so với cùng kỳ năm trước.

- Cây tiêu: Diện tích ước đạt 800,8 ha, giảm 13,1%; diện tích giảm chủ yếu ở huyện Đức Linh; Tánh Linh. Sản lượng thu hoạch 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.100 tấn, giảm 11,4% so với cùng kỳ năm trước; nguyên nhân giảm do giá bán không ổn định, sâu bệnh thường xuyên xuất hiện gây hại nên người dân hạn chế đầu tư.

- Các loại cây lâu năm còn lại: Đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.

* Tình hình dịch bệnh

Trong 6 tháng đầu năm 2024 công tác phòng ngừa sâu bệnh được thực hiện chủ động thường xuyên; các đối tượng sâu bệnh gây hại trên cây trồng xuất hiện và gây hại trên diện rộng nhưng tỷ lệ gây hại thấp, không ảnh hưởng nhiều đến năng suất cây trồng, cụ thể:

- Cây lúa: Diện tích nhiễm rầy nâu 413 ha, tăng 80 ha so cùng kỳ năm trước; bệnh đạo ôn lá 1.014 ha, tăng 164 ha; sâu đục thân 295 ha, giảm 27 ha; chuột gây hại 165 ha, giảm 145 ha.

- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu 1.059 ha, giảm 857 ha so cùng kỳ năm trước, chủ yếu là nhiễm nhẹ.

Các loài sâu bệnh hại trên cây trồng khác xuất hiện và gây hại với mật độ thấp.

* Tình hình thủy lợi phục vụ sản xuất

Kết quả cấp nước sản xuất cây lúa và cây màu vụ đông xuân năm 2024 từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh 32.969 ha, đạt 99,9% kế hoạch. Đến ngày 24/5/2024, lượng nước hữu ích hiện tại các hồ chứa trong tỉnh được 66 triệu m3, đạt 18,2% thiết kế, thấp hơn 72 triệu m3 so cùng kỳ năm trước; hồ thuỷ điện Đại Ninh được 88,8 triệu m3, đạt 35,3% thiết kế, cao hơn 66,5 triệu m3; hồ thuỷ điện Hàm Thuận được 181 triệu m3, đạt 34,7% thiết kế, cao hơn 113,5 triệu m3. Tính đến ngày 23/5/2024 diện tích tưới lúa, hoa màu vụ hè thu 2024 thuộc hệ thống công trình thủy lợi đạt 15.976 ha, đạt 53% kế hoạch.

* Tình hình thiệt hại do thiên tai

           Trong 6 tháng đầu năm 2024 xảy ra 08 vụ thiên tai trên địa bàn tỉnh do mưa đầu mùa, làm ngập 2.777 ha lúa; hư hại 1,5 ha hoa màu; gió lớn tốc mái 01 chuồng bò; tổng thiệt hại thiên tai trong nông nghiệp khoảng 5,7 tỷ đồng.

2. Chăn nuôi

Hoạt động chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra thuận lợi; giá thịt hơi nhiều loại gia súc, gia cầm tăng; tình hình dịch bệnh được kiểm soát; chăn nuôi trâu, bò duy trì ổn định và có khuynh hướng tăng nhẹ; chăn nuôi lợn, gia cầm theo chuỗi giá trị, an toàn sinh học. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, công nghệ cao được tăng cường, mô hình chăn nuôi theo hướng hữu cơ bước đầu đạt hiệu quả kinh tế cao đang được phổ biến, nhân rộng, phát triển theo hướng bền vững.

- Chăn nuôi trâu, bò: Đàn trâu có 8.560 con, tăng 1,9% so với cùng kỳ năm trước; tập trung chủ yếu ở huyện Tánh Linh, Đức Linh, Hàm Thuận Bắc và Hàm Tân; trong 6 tháng đầu năm 2024 thị trường tiêu thụ ổn định. Đàn bò phát triển theo hướng tăng năng suất, chất lượng, nhiều chương trình lai tạo đàn bò được nhiều hộ chăn nuôi ở các địa phương trong tỉnh quan tâm nên chất lượng được cải thiện, tỷ lệ bò lai trong tổng đàn có khuynh hướng ngày càng cao, toàn tỉnh có 183.000 con, tăng 2,12% so với cùng kỳ năm trước.

- Chăn nuôi lợn: Đàn lợn có 397.500 con (không tính lợn con chưa tách mẹ), tăng 4,84% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: doanh nghiệp 187.500 con, tăng 15,2%, chiếm 47,2% trong tổng đàn; trang trại quy mô lớn (CP) 115.000 con, tăng 6,5%, chiếm 28,9%; hộ chăn nuôi nhỏ và gia trại 95.000 con, giảm 12,4%, chiếm 23,9%; hộ chăn nuôi nhỏ có khuynh hướng giảm dần, do chi phí thức ăn cao, tình hình dịch bệnh, ô nhiễm ở các khu dân cư... bên cạnh đó một số hộ đã chuyển sang chăn nuôi bán công nghiệp, liên kết với doanh nghiệp trong quá trình sản xuất, đặc biệt là ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp, trang trại quy mô lớn có chuồng trại được đầu tư cao, kiểm soát được dịch bệnh tốt; từ sản xuất thức ăn, con giống, chăn nuôi cho đến tiêu thụ sản phẩm được thực hiện theo dây chuyền khép kín.

- Chăn nuôi gia cầmĐàn gia cầm 6 tháng đầu năm 2024 phát triển tốt, toàn tỉnh có 6.747 ngàn con, tăng 2,52% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: đàn gà 5.349 ngàn con, tăng 2,3%; đàn vịt 1.229,4 ngàn con, tăng 4,4%; đàn ngan 33 ngàn con, giảm 16,2%; đàn ngỗng 2,1 ngàn con, tương đương so với cùng kỳ; đàn chim cút 121 ngàn con, tăng 0,8%; đàn bồ câu 12,5 ngàn, tăng 4,2%.

* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật

Trong 6 tháng đầu năm 2024 trên địa bàn tỉnh không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm như: cúm gia cầm; bệnh viêm da nổi cục trâu, bò; lở mồm long móng; bệnh heo tai xanh. Một số bệnh truyền nhiễm khác có xảy ra trên đàn gia súc, gia cầm ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch.

- Công tác tiêm phòng vắc xin: Trong tháng đã tiêm phòng 852,8 ngàn liều vắc xin (trong đó trâu, bò 11 ngàn liều; lợn 32,3 ngàn liều; gia cầm 804,9 ngàn liều). Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã tiêm phòng 11.756,6 ngàn liều (trong đó trâu, bò 119,2 ngàn liều; lợn 259,6 ngàn liều và gia cầm 11.357,5 ngàn liều).

- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 120,5 ngàn con lợn; 1,8 ngàn con trâu bò; 30,5 ngàn con gia cầm; 1,1 ngàn tấn thịt các loại; 8,9 tấn thịt sơ chế và 5,4 triệu quả trứng gia cầm. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã kiểm dịch 691,4 ngàn con lợn; 11,3 ngàn con trâu bò; 722,2 ngàn con gia cầm; 3,5 ngàn tấn thịt các loại; 26,9 triệu quả trứng gia cầm; 50,1 tấn thịt sơ chế.

- Kiểm soát giết mổ: Trong tháng đã kiểm soát giết mổ 311 con trâu, bò; 4 ngàn con lợn; 1,1 ngàn con gia cầm và 119 con dê. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã kiểm soát giết mổ 1,4 ngàn con trâu, bò; 24,4 ngàn con lợn; 6,8 ngàn con gia cầm và 646 con dê.

3. Lâm nghiệp

- Công tác trồng rừng: Trong tháng thời tiết có mưa, các đơn vị trồng rừng đã tiến hành trồng rừng sản xuất đạt 790 ha; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 diện tích rừng trồng mới ước đạt 790 ha, tăng 1,28% so với cùng kỳ năm trước. Đã thực hiện giao khoán bảo vệ rừng chuyển tiếp 139.929,5 ha. Các đơn vị chủ rừng tiếp tục tập trung gieo ươm, chăm sóc cây giống, trồng cây phân tán theo kế hoạch; đến nay, gieo ươm được 3 triệu cây giống các loại.

- Công tác phòng cháy, chữa cháy rừng: Các đơn vị chức năng thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát các khu vực có nguy cơ cháy cao; theo dõi và thông báo kịp thời cấp dự báo cháy rừng trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố; thực hiện đưa vào sử dụng các công trình phòng cháy, chữa cháy rừng mùa khô năm 2024. Trong 6 tháng đầu năm 2024 toàn tỉnh xảy ra 20 trường hợp cháy thực bì (lá, cỏ khô...) dưới tán rừng (tăng 06 trường hợp so cùng kỳ), các trường hợp cháy được phát hiện sớm và chữa cháy kịp thời nên không gây thiệt hại tài nguyên rừng.

- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Công tác bảo vệ rừng, quản lý lâm sản, chống lấn chiếm đất rừng ngay từ những tháng đầu năm được tăng cường; triển khai các hoạt động tuần tra, kiểm tra, truy quét các vùng trọng điểm; theo dõi, nắm bắt diễn biến, tình hình tại vùng giáp ranh với các tỉnh Lâm Đồng, Ninh Thuận và các vùng trọng điểm nội tỉnh. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã phát hiện lập hồ sơ xử lý 136 vụ vi phạm luật lâm nghiệp (tăng 28 vụ so cùng kỳ), tịch thu 105,7 m3 gỗ các loại, 115,7 kg động vật rừng, 01 ô tô, 64 xe máy và 30 phương tiện khác. Toàn tỉnh xảy ra 13 vụ lấn, chiếm đất rừng với diện tích 2,6 ha (tăng 02 vụ so cùng kỳ).

4. Thủy sản

- Diện tích nuôi trồng thủy sản: Trong tháng diện tích nuôi trồng ước đạt 225 ha, tăng 4,2% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.287,4 ha, tăng 2,84% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: diện tích nuôi cá ước đạt 935 ha, tăng 2,41%; diện tích nuôi tôm đạt 328 ha, tăng 3,93%).

- Sản lượng nuôi trồng: Sản lượng nuôi trồng trong tháng ước đạt 689,3 tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; luỹ kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 4.045,2 tấn, tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước (trong đó: cá các loại ước đạt 1.832,8 tấn, tăng 3,52%; tôm nuôi nước lợ ước đạt 2.112,4 tấn, tăng 1,75%); tình hình nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 khá ổn định, tuy nhiên giá tôm thương phẩm hiện đang ở mức thấp.

- Sản lượng khai thác: Trong những tháng đầu năm 2024 thời tiết ngư trường thuận lợi cho hoạt động nghề cá khai thác, các đàn cá nổi đã xuất hiện nhiều với trữ lượng lớn; nhiều thuyền nghề khai thác đạt hiệu quả cao, nhất là các tàu nghề pha xúc, vây rút chì, mành chụp, lưới rê; một số tàu câu khơi, vây rút chì, mành chụp, lưới rê cản thường xuyên tham gia khai thác tại các vùng Trường Sa, DK1. Khai thác thủy sản nội địa hiện nay giảm do diện tích mặt nước ngày càng thu hẹp, các loại thủy sản được khai thác ở các sông, suối, đầm, hồ thủy lợi chủ yếu là các loại cá rô, lóc, trạch, trê, tôm, cua. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước đạt 23.744,2 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 111.199,8 tấn, tăng 1,77% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khai thác biển ước đạt 110.954,5 tấn, tăng 1,77%).

- Sản xuất giống thuỷ sản: Trong 6 tháng đầu năm 2024 hoạt động sản xuất tôm giống gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên. Công tác quản lý chất lượng giống thủy sản, nhất là giống tôm bố mẹ luôn được tăng cường. Tình hình sản xuất tôm giống trên địa bàn tỉnh ổn định so năm trước; sản lượng tôm giống sản xuất và tiêu thụ trong tháng ước đạt 1,9 tỷ con; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 11,1 tỷ con, tăng 2,09% so với cùng kỳ năm trước.

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản: Tiếp tục phát huy hiệu quả hệ thống giám sát hành trình trong giám sát, ngăn chặn tàu cá vượt ranh giới cho phép trên biển, giám sát tàu cá ra/vào cảng, bốc dỡ sản phẩm, truy xuất nguồn gốc thủy sản và thực thi pháp luật về khai thác IUU theo đúng quy định. Từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh không xảy ra trường hợp tàu cá và ngư dân bị nước ngoài bắt giữ; về vi phạm khác, đã phát hiện và xử phạt 61 trường hợp vi phạm. Công tác đăng kiểm tàu cá được thực hiện thường xuyên, từ đầu năm đến nay, đã thực hiện đăng kiểm 902 tàu cá/3.856 tàu cá có chiều dài từ 12m trở lên. Công tác tổ chức sản xuất trong khai thác theo hình thức tổ đội sản xuất được quan tâm; tiếp tục duy trì hoạt động 129 tổ đoàn kết/982 thuyền/4.910 lao động và 05 nghiệp đoàn nghề cá. Tiếp tục triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa.

5. Công tác ứng dụng khoa học công nghệ và khuyến nông vào sản xuất

- Ứng dụng khoa học công nghệ trong trồng trọt: Trong 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục theo dõi, thực hiện 04 mô hình từ năm 2023 chuyển sang: Mô hình trồng thâm canh cây Hoài sơn, mô hình trồng thâm canh gừng, mô hình thâm canh sầu riêng đạt tiêu chuẩn VietGAP, mô hình sản xuất lúa SRI theo hướng hữu cơ đạt chứng nhận VietGAP.

- Ứng dụng khoa học công nghệ trong chăn nuôi: Toàn tỉnh có trên 212 cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tập trung; trong đó có 63 cơ sở chăn nuôi theo mô hình chăn nuôi trang trại quy mô lớn, được cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học; có 10 trang trại được công nhận chăn nuôi theo tiêu chuẩn VietGAP và 01 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Chăn nuôi trang trại quy mô lớn đã góp phần rất lớn làm tăng tổng sản lượng thịt hơi các loại và tổng đàn gia súc, gia cầm hàng năm.

- Ứng dụng khoa học công nghệ trong khai thác thủy sản: Một số nghề chủ lực hoạt động trên tuyến khơi (như lưới vây, rê, câu, chụp mực,…) có sự đầu tư cải tiến ngư cụ, cơ giới hóa đánh bắt, trang bị đồng bộ, hiện đại như máy dò cá Sonar, rada hàng hải, thông tin liên lạc tầm xa, điện thoại vệ tinh... Các mô hình hiệu quả trong bảo quản sản phẩm sau khai thác được nhân rộng (toàn tỉnh có khoảng 600 tàu cá cải hoán hầm bảo quản bằng vật liệu cách nhiệt Polyurethan (PU) để thay thế hầm bảo quản truyền thống; trên 100 tàu trang bị hầm cấp đông; thực hiện 01 mô hình “sử dụng công nghệ hầm lạnh bảo quản sản phẩm bằng máy bảo ôn trên tàu hoạt động nghề lưới kéo”).

II. Công nghiệp; xây dựng; đầu tư phát triển

1. Công nghiệp

Tình hình hoạt động sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 diễn biến theo xu hướng tích cực và tiếp tục có mức tăng ở ba nhóm ngành (ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải). Trong đó ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao góp phần lớn cho mức tăng trưởng toàn ngành công nghiệp; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dần phục hồi ở một số ngành như: Sản xuất đồ uống, sản xuất trang phục, sản xuất giày dép, sản xuất đồ gỗ.

 Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) trong tháng ước giảm 6,82% so với tháng trước và tăng 8,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 16,58%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,52%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 9,41%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,47%.

Dự ước quý II/2024, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,78% so với quý trước và tăng 12,33% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 11,25%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,28%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 14,76%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,64%.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, ước chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 12,99% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 11,98% do cùng kỳ khai thác đá cát sỏi làm tuyến đường cao tốc; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,98%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 17,08%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,50%.

 * Một số sản phẩm chủ yếu 

Các sản phẩm sản xuất 6 tháng đầu năm 2024 tăng so với cùng kỳ gồm: Thủy sản đông lạnh tăng 16,73%; nước khoáng (không tính nước khoáng tinh khiết) tăng 12,52%; muối hạt tăng 21,10%; quần áo may sẵn tăng 5,84%; gạch các loại tăng 10,33%; nước máy sản xuất tăng 5,06%; điện sản xuất tăng 17,20%; đồ gỗ và các sản phẩm gỗ tăng 2,05 lần; giày, dép các loại tăng 30,19%. Sản phẩm giảm gồm: Cát sỏi các loại giảm 18,82%; đá khai thác giảm 0,79%; thủy sản khô giảm 17,97%;  nước mắm giảm 12,69%; hạt điều nhân giảm 42,05%; sơ chế mũ cao su giảm 13,95%; thức ăn gia súc giảm 23,08%.

* Chỉ số sử dụng lao động

Chỉ số sử dụng lao động trong tháng tăng 0,88% so với tháng trước và tăng 9,28% so cùng kỳ, lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 tăng 7,23% so với cùng kỳ; trong đó ngành công nghiệp khai khoáng giảm 1,15%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,28%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,23%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,84%.

Theo loại hình doanh nghiệp, chỉ số sử dụng lao động 6 tháng đầu năm 2024 của khối doanh nghiệp nhà nước giảm 4,67% so với cùng kỳ; doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng 6,72%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 22%.

* Chỉ số tiêu thụ

Chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng ước tăng 1,24% so với tháng trước và tăng 0,72% so với cùng kỳ; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 chỉ số tiêu thụ giảm 11,05% so với cùng kỳ.

Các ngành có chỉ số tiêu thụ tăng như: sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 26,85%; sản xuất đồ uống tăng 18,16%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,29%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 65,63%. Các ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 12,72; sản xuất trang phục giảm 11,08%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 6,96%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác giảm 10,09;…

* Chỉ số tồn kho

Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong tháng ước tăng 2,19% so với tháng trước và tăng 9,42% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so cùng kỳ: sản xuất da và các sản phẩm có liên quan giảm 5,88%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 15,95%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 51,64%. Ngược lại cũng có ngành tăng như: Sản xuất đồ uống tăng 67,06%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 2,3 lần; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 7,69%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 1,67%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 29,78%.

* Tình hình xu hướng sản xuất kinh doanh ngành chế biến, chế tạo

Sản xuất kinh doanh quý II/2024 so với quý trước: Qua khảo sát các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến, chế tạo cho thấy có 39,13% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý I/2024; 26,09% đánh giá khó khăn và 34,78% số doanh nghiệp cho rằng ổn định. Dự kiến tình hình sản xuất kinh doanh quý III so với quý II/2024: Có 86,96% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và tốt hơn, trong đó (57,97% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt hơn, 28,99% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định); 13,04% dự báo khó khăn hơn.

* Tình hình hoạt động của các khu công nghiệp (KCN)

Trong 6 tháng đầu năm 2024, các KCN tỉnh Bình Thuận thu hút được 02 dự án đầu tư với diện tích 12,44 ha. Lũy kế đến nay các KCN thu hút được 87 dự án đầu tư, trong đó có 25 dự án đầu tư nước ngoài và 62 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký là 17.717,46 tỷ đồng và 190,83 triệu USD, diện tích đất cho thuê 256,03 ha. Doanh thu của các doanh nghiệp KCN ước đạt 5.200 tỷ đồng, tăng 12,5% so với cùng kỳ, đạt 48,8% kế hoạch năm; kim ngạch xuất khẩu ước đạt 130 triệu USD, tăng 14,3% so với cùng kỳ, đạt 40,6% kế hoạch năm; nộp ngân sách ước đạt 135 tỷ đồng, tăng 25,5% so với cùng kỳ, đạt 54% kế hoạch năm.

2. Xây dựng

Giá trị sản xuất ngành xây dựng quý II/2024 (theo giá hiện hành) ước đạt 4.673,9 tỷ đồng, tăng 8,34% so cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 8.624,7 tỷ đồng, tăng 8,79% so cùng kỳ năm trước. Trong đó; khu vực doanh nghiệp nhà nước ước đạt 97,8 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 1,1%), giảm 22,89%; doanh nghiệp ngoài nhà nước ước đạt 6.155 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 71,4%), tăng 7,82%; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 110,5 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 1,3%), tăng 33,25%; Loại hình kinh tế khác ước đạt 2.261,4 tỷ đồng (chiếm tỷ trọng 26,2%), tăng 12,51%.

Giá trị sản xuất ngành xây dựng quý II/2024 (theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.719,6 tỷ đồng, tăng 9,2% so cùng kỳ năm trước. Ước 6 tháng đầu năm 2024 đạt 5.016 tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó công trình nhà ở đạt 1.375,5 tỷ đồng, giảm 5,2%; công trình nhà không để ở đạt 1.111 tỷ đồng, tăng 50,9%; công trình kỹ thuật dân dụng 2.026,3 tỷ đồng, tăng 9,8%; hoạt động xây dựng chuyên dụng đạt 503,2 tỷ đồng, tăng 0,9%.

* Xu hướng sản xuất ngành xây dựng

Hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD) của các doanh nghiệp xây dựng quý II/2024 so quý I/2024, với 26,2% doanh nghiệp nhận định hoạt động thuận lợi hơn, 33,3% doanh nghiệp nhận định hoạt động ổn định và 40,5% doanh nghiệp nhận định hoạt động khó khăn hơn. Dự báo quý III/2024 so với quý II/2024, có 38,1% doanh nghiệp nhận định hoạt động SXKD thuận lợi hơn; 26,2% nhận định ổn định và 35,7% dự báo khó khăn hơn. Chỉ số cân bằng chung đánh giá tổng quan xu hướng SXKD quý II/2024 so với quý I/2024 giảm 14,3%; chỉ số cân bằng chung quý III/2024 so với quý II/2024 là 2,4%.

3. Đầu tư phát triển

Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 6 tháng đầu năm 2024 đạt kết quả tích cực. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhất là dự án trọng điểm được quan tâm đầu tư, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn thách thức.

Vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 305,1 tỷ đồng, tăng 10% so với tháng trước và tăng 5,59% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.429,2 tỷ đồng, tăng 7,59% so với cùng kỳ năm trước, đạt 28,1% so với kế hoạch. Trong đó: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 1.242,7 tỷ đồng, tăng 8,05%, đạt 28% so với kế hoạch. Vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 174,4 tỷ đồng, tăng 9,2%, đạt 30% so với kế hoạch. Vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 12,1 tỷ đồng, giảm 34,8%, đạt 20,1% so với kế hoạch.

Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội trên địa bàn quý II/2024 ước đạt 10.805,8 tỷ đồng, tăng 7,33% so với cùng kỳ năm trước. Dự ước 6 tháng đầu năm 2024 đạt 19.946,3 tỷ đồng, tăng 9,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vốn nhà nước trên địa bàn đạt 3.996,1 tỷ đồng, tăng 1,42%, chiếm 20% trong tổng số vốn thực hiện trên địa bàn; vốn ngoài nhà nước đạt 14.546,3 tỷ đồng, tăng 11,44%, chiếm 72,9%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.403,9 tỷ đồng tăng 8,65%, chiếm 7%.

Trong 6 tháng đầu năm 2024, tính đến ngày 07/6/2024, trên địa bàn tỉnh có 08 dự án được cấp quyết định chấp thuận chủ trương đầu tư (giảm 55,6%) với tổng vốn đăng ký 1.221,7 tỷ đồng (giảm 22,5%); 05 dự án đưa vào hoạt động kinh doanh (giảm 28,6%) với tổng vốn là 1.260,1 tỷ đồng (tăng 6,47 lần); thu hồi 08 dự án. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 1.638 dự án đầu tư còn hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đầu tư 1.770.870 tỷ đồng. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện, công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Tình hình đăng ký kinh doanh từ ngày 01/01 đến ngày 14/6/2024, có 565 doanh nghiệp thành lập mới (trong đó có 219 đơn vị trực thuộc), giảm 7,83% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký 2.321,9 tỷ đồng, giảm 40,92%; có 166 doanh nghiệp hoạt động trở lại (trong đó có 34 đơn vị trực thuộc), tăng 7,79%; tạm ngừng hoạt động 419 doanh nghiệp (trong đó có 87 đơn vị trực thuộc), tăng 25,83%; số doanh nghiệp đăng ký thay đổi 771 doanh nghiệp (trong đó có 177 đơn vị trực thuộc), giảm 17,89%; số doanh nghiệp đã giải thể 170 doanh nghiệp (trong đó có 107 đơn vị trực thuộc), tăng 25,93%. Thông báo cảnh báo 60 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký; thông báo vi phạm 23 trường hợp doanh nghiệp không hoạt động tại địa chỉ đăng ký trên 1 năm, xử lý vi phạm 02 trường hợp. Xử lý “mở khóa” hoạt động trở lại 10 trường hợp sau khi cơ quan thuế chấp thuận và doanh nghiệp có báo cáo giải trình.

III. Thương mại; giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại

Tình hình thương mại của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 hoạt động tương đối ổn định. Sức mua của người dân tăng so với cùng kỳ năm trước; hàng hóa dồi dào luôn đáp ứng nhu cầu người dân, giá bán trên thị trường tương đối ổn định, không xảy ra biến động khan hiếm làm tăng giá đột biến. Hoạt động du lịch diễn ra khá nhộn nhịp, nhiều hoạt động văn hóa, thể thao và lễ hội đã thu hút nhiều du khách. Dịch vụ lữ hành hoạt động ổn định và tiếp tục tăng cường. Các nhà hàng, cơ sở kinh doanh ăn uống tăng cường phục vụ. Hoạt động kinh doanh vận tải đường bộ ổn định đáp ứng kịp thời nhu cầu vận chuyển hành khách và hàng hóa; vận tải đường thuỷ diễn ra thông suốt phục vụ cho du khách và người dân đảo Phú Quý.

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ trong tháng đạt 9.262,5 tỷ đồng, tăng 2,32% so với tháng trước và tăng 14,57% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 5.858 tỷ đồng, tăng 0,92% so với tháng trước và tăng 16,35% so với cùng kỳ năm trước (nhóm lương thực, thực phẩm đạt 2.810,6 tỷ đồng, tăng 0,66% so với tháng trước và tăng 13,51% so với cùng kỳ; nhóm hàng may mặc đạt 220,4 tỷ đồng, tăng 0,48% so với tháng trước và tăng 3,02% so với cùng kỳ; nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình đạt 565,3 tỷ đồng, tăng 1,50% so với tháng trước và tăng 30,28% so với cùng kỳ; nhóm hàng hoá khác đạt 282,2 tỷ đồng, tăng 1,88% so với tháng trước và tăng 13,36% so với cùng kỳ). Doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành trong tháng ước đạt 2.233,6 tỷ đồng, tăng 6,72% so với tháng trước và tăng 8,85% so với cùng kỳ. Doanh thu các ngành dịch vụ khác trong tháng ước đạt 1.170,9 tỷ đồng, tăng 1,35% so với tháng trước và tăng 17,38% so với cùng kỳ năm trước (dịch vụ nghệ thuật, vui chơi và giải trí đạt 662,8 tỷ đồng, giảm 0,07% so với tháng trước và tăng 24,88% so với cùng kỳ; dịch vụ khác đạt 301,6 tỷ đồng, tăng 4,26% so với tháng trước và tăng 16,71% so với cùng kỳ).

Dự ước tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ quý II/2024 đạt 27.231,1 tỷ đồng, tăng 14,80% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 17.427,4 tỷ đồng, tăng 17,02% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành ước đạt 6.343,1 tỷ đồng, tăng 7,22% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu các ngành dịch vụ khác ước đạt 3.460,5 tỷ đồng, tăng 18,78% so với cùng kỳ năm trước.

Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu các ngành dịch vụ ước đạt 53.452,1 tỷ đồng, tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tổng mức bán lẻ hàng hóa ước đạt 34.638,9 tỷ đồng, tăng 18,27% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu lưu trú, ăn uống và lữ hành ước đạt 11.758,9 tỷ đồng, tăng 4,98% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu các ngành dịch vụ khác ước đạt 7.054,3 tỷ đồng, tăng 26,22% so với cùng kỳ năm trước.

* Công tác quản lý thị trường

Trong tháng 5/2024, Cục quản lý thị trường tiếp tục công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả. Đã kiểm tra 53 vụ, phát hiện và xử lý 24 vụ vi phạm về các hành vi: kinh doanh hàng hóa nhập lậu 6 vụ, vi phạm về đầu cơ 1 vụ, vi phạm trong kinh doanh 8 vụ và vi phạm khác 9 vụ. Tổng số tiền thu phạt là 645,66 triệu đồng (trong đó tiền phạt hành chính là 401,75 triệu đồng, tiền bán hàng hóa tịch thu là 82 triệu đồng, thu khác 161,91 triệu đồng). Lũy kế 5 tháng đầu năm 2024 đã kiểm tra 202 vụ, phát hiện và xử lý 109 vụ: kinh doanh hàng nhập lậu 36 vụ, gian lận thương mại 15 vụ, vi phạm về đầu cơ 1 vụ, vi phạm trong kinh doanh 26 vụ và vi phạm khác 31 vụ. Tổng số tiền thu phạt 2.017,51 triệu đồng (trong đó tiền phạt hành chính 1.659 triệu đồng, tiền bán hàng tịch thu 196,6 triệu đồng, thu khác 161,91 triệu đồng).

2. Giá cả

2.1. Giá tiêu dùng

2.1.1. Tình hình thị trường và giá cả tháng 6 năm 2024

Giá lương thực, thực phẩm, giá điện sinh hoạt, giá dịch vụ y tế tăng là những nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2024 tăng 0,57% so với tháng trước, tăng 5,83% so với cùng kỳ năm trước và tăng 2,10% so với tháng 12 năm trước, CPI bình quân 6 tháng đầu năm 2024 so với cùng kỳ năm trước tăng 4,22%.

So với tháng trước, trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng chính hầu hết các nhóm hàng đều tăng giá: Thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,68%; Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,41%; Đồ uống và thuốc lá tăng 0,37%; Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,30%; Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,29%; Văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,22%; May mặc, mũ nón và giày dép tăng 0,17%; Bưu chính viễn thông tăng 0,06%; Giáo dục tăng 0,02%. Có 01 nhóm hàng giảm giá: Giao thông giảm 2,51%.

* Các nguyên nhân làm tăng CPI tháng 6 năm 2024 so với tháng trước

- Giá dịch vụ y tế tăng 9,76% so với tháng trước, nguyên nhân do tại địa phương thực hiện tăng giá dịch vụ y tế theo Thông tư số 22/2023/TT-BYT ngày 17/11/2023 của Bộ Y Tế quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc và hướng dẫn áp dụng giá, thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh trong một số trường hợp.

- Giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,84% so với tháng trước do nhu cầu du lịch hè tăng; đồng thời trong tháng diễn ra kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 và thi tốt nghiệp THPT nhu cầu ăn uống bên ngoài tăng giá biến động tăng so tháng trước.

- Tháng 6 là thời điểm du lịch hè, nhu cầu du lịch tăng dẫn tới chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói tăng 0,60%.

* Các nguyên nhân làm giảm CPI tháng 6 năm 2024 so với tháng trước

- Giá gas tháng 6/2024 giảm 0,81% so với tháng trước, do giá gas trong nước điều chỉnh giảm 3.000 đồng/bình 12 kg theo giá gas thế giới. Giá gas thế giới bình quân tháng 6/2024 công bố ở mức 572,5 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn so với tháng 5/2024.

- Giá thịt gia cầm tháng 6/2024 giảm 1,10% so với tháng trước do nguồn cung ở địa phương dồi dào, nhu cầu tiêu dùng trong các trường học giảm vì đang kỳ nghỉ hè.

- Giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh vào các ngày 06/6/2024, 13/6/2024 và 20/6/2024, tính bình quân chung tháng 6 năm 2024 mặt hàng xăng, dầu giảm 5,47% so với tháng trước, cụ thể: Giá xăng A95 giảm 1.467 đồng/lít, xăng E5 giảm 1.367 đồng/lít, dầu hỏa giảm 87 đồng/lít, dầu diezel giảm 223 đồng/lít.

2.1.2. Tình hình thị trường và giá cả 6 tháng đầu năm 2024

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 4,22% so với bình quân cùng kỳ năm trước.

 * Các yếu tố làm tăng CPI trong 6 tháng đầu năm 2024

- Giá lương thực tăng 23,85% so bình quân cùng kỳ, trong đó giá gạo tăng mạnh 29,40%, nguyên nhân do tăng theo giá gạo xuất khẩu và nhu cầu tiêu dùng gạo nếp và gạo tẻ tăng cao.

- Giá các mặt hàng thực phẩm tăng 2,37% so bình quân cùng kỳ, do giá các mặt hàng thịt gia súc, gia cầm, giá thịt chế biến, giá các mặt hàng thực phẩm tươi sống, giá rau tươi các loại, giá quả tươi tăng cao.

- Giá nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 6,76% so bình quân cùng kỳ, do giá xi măng, sắt thép, gạch các loại, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào và giá nhà thuê tăng.

- Chỉ số giá nhóm điện sinh hoạt tăng 12,15% so bình quân cùng kỳ, do thời tiết nắng nóng kéo dài nhu cầu sử dụng điện tăng; ngày 04/5/2023 và ngày 09/11/2023 EVN điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân. Vì vậy, so cùng kỳ năm trước giá điện tăng cao.

- Giá nhiên liệu tăng 3,03% so bình quân cùng kỳ, do ảnh hưởng điều chỉnh giá xăng, dầu trong nước tăng theo giá thế giới.

* Các yếu tố làm giảm CPI trong 6 tháng đầu năm 2024

- Học phí giáo dục giảm 17,17% so bình quân cùng kỳ, do tại địa phương năm học 2023-2024 vẫn thực hiện thu tiền học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 09/5/2023 của Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Thuận.

- Giá một số mặt hàng quả có múi giảm 6,46% so bình quân cùng kỳ, do nguồn cung dồi dào, nhu cầu tiêu dùng không tăng tác dộng giá bán giảm.

2.2. Tình hình biến động giá sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; giá sản xuất công nghiệp và giá nguyên nhiên vật liệu dùng cho sản xuất

 Chỉ số giá sản xuất sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II/2024 tăng 0,46% so với quý trước và tăng 5,15% so với cùng kỳ năm trước. Trong 3 nhóm sản phẩm chính có 01 nhóm tăng và 02 nhóm giảm so với quý trước: Sản phẩm nông nghiệp tăng 1,69% so với quý trước và tăng 6,21% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm lâm nghiệp giảm 0,27% so với quý trước và tăng 5,62% so với cùng kỳ năm trước; sản phẩm thủy sản giảm 2,33% so với quý trước và tăng 2,64% so với cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất quý II/2024 giảm 0,08% so với quý trước và tăng 3,61% so với cùng kỳ năm trước, bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 3,17% so cùng kỳ. Trong đó, chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 1,71% so quý trước và giảm 1,57% so cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho sản xuất công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,13% so quý trước và tăng 5,49% so cùng kỳ năm trước; chỉ số giá nguyên, nhiên vật liệu dùng cho xây dựng tăng 0,23% so quý trước và tăng 0,99% so cùng kỳ năm trước.

Chỉ số giá sản xuất công nghiệp quý II/2024 tăng 0,56% so với quý trước, tăng 9,76% so với cùng kỳ năm trước; bình quân 6 tháng đầu năm 2024 tăng 9,58% so cùng kỳ 2023. Biến động giá sản xuất 4 nhóm sản phẩm công nghiệp: Chỉ số giá sản xuất sản phẩm khai khoáng quý II/2024 tăng 3,34% so với quý trước; Chỉ số giá sản xuất sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo quý II/2024 giảm 0,74% so với quý trước; Chỉ số giá sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí quý II/2024 tăng 1,01% so với quý trước, giá nguyên liệu sản xuất tương đối ổn định và giá xăng dầu giảm liên tục trong quý không ảnh hưởng nhiều đến quá trình sản xuất; Chỉ số giá sản xuất cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải quý II/2024 tăng 0,67% so với quý trước do một số đơn vị tư nhân tăng giá xử lý vì chi phí thuê nhân công tăng; giá nước do Nhà nước quản lý nên trong quý II/2024 vẫn ổn định.

3. Hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra khá sôi động, đặc biệt là các dịp Tết Nguyên đán, lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, Ngày giải phóng Bình Thuận 19/4, Ngày giải phóng Miền Nam 30/4, Ngày Quốc tế Lao động 01/5 và các ngày nghỉ cuối tuần. Lượng khách đến tăng so với cùng kỳ năm trước do nhiều yếu tố thuận lợi như thời tiết tốt, giao thông thuận lợi hơn, nhiều gói tour khuyến mãi hấp dẫn, thu hút khách đến tham quan, du lịch. Lượng khách lưu trú đa số khách du lịch nội địa và tập trung tại khu vực Hàm Tiến, Mũi Né, Tiến Thành. Điểm nổi bật của hoạt động du lịch 6 tháng đầu năm 2024 là khu Novaworld Phan Thiết (Tiến Thành) với nhiều khu vui chơi quy mô lớn như công viên Wonder Hill, Dino Park, Safari Cafe, Wonderland Water Park, Circus Land. Trong 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh cũng diễn ra rất nhiều các hoạt động thu hút khách du lịch như lễ hội Vibe Fest, Lễ hội Carnival NovaWorld Phan Thiết, giải thể thao 3 môn phối hợp “Bơi, chạy, trượt đồi cát” Bắc Bình - Bình Thuận mở rộng lần thứ X năm 2024, Giải đua Windsurf mở rộng lần thứ 23 “The 23rd Mui Ne Fun Cup 2024”; giải Việt Nam Festrival Bình Thuận 2024; Giải thi đấu thể hình nam - nữ bãi biển 2024; Lễ hội chèo Sup Phú Quý - Bình Thuận 2024; giải Stop and Run Marathon Bình Thuận 2024… Bên cạnh đó, tuyến du lịch Phú Quý cũng được các đơn vị lữ hành khai thác, thiết kế tour và giới thiệu đến du khách hướng về biển - đảo.

Lượng khách du lịch trong tháng ước đạt 856,8 ngàn lượt khách, tăng 9,63% so tháng trước và tăng 5,59% so với cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt 31,9 ngàn lượt khách, tăng 15,06% so với tháng trước và tăng 82,27% so với cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 1.622 ngàn ngày khách, tăng 16,42% so với tháng trước và tăng 7,21% so với cùng kỳ năm trước. Lượng khách du lịch quý II/2024 ước đạt 2.423,1 ngàn lượt khách, tăng 4,06% so với cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt 89,8 ngàn lượt khách, tăng 79,84% so với cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 4.545,2 ngàn ngày khách, tăng 5,09% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 lượng khách du lịch ước đạt 4.585 ngàn lượt khách, tăng 5,01% so với cùng kỳ năm trước (trong đó lượt khách phục vụ trong ngày ước đạt 156,1 ngàn lượt khách, tăng 65,62% so với cùng kỳ năm trước); ngày khách phục vụ ước đạt 8.678 ngàn ngày khách, tăng 7,45% so với cùng kỳ năm trước.

Lượng khách quốc tế trong tháng ước đạt 38,6 ngàn lượt khách, tăng 22,90% so với tháng trước và tăng 3,49 lần so với cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ ước đạt 153,3 ngàn ngày khách, tăng 23,89% so với tháng trước và tăng 3,43 lần so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 ước đạt 104,7 ngàn lượt khách, tăng 94,47% so với cùng kỳ năm trước, ngày khách phục vụ ước đạt 416,8 ngàn ngày khách, tăng 92,23% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 234 ngàn lượt khách, tăng 91,25% so với cùng kỳ năm trước, ngày khách phục vụ ước đạt 930 ngàn ngày khách, tăng 88,15% so với cùng kỳ năm trước. Chính sách miễn thị thực và cấp thị thực điện tử phát huy hiệu quả, những sản phẩm, dịch vụ du lịch tiêu biểu, đặc sắc, hấp dẫn và các chương trình kích cầu để thu hút khách quốc tế được chú trọng nên lượng khách quốc tế 6 tháng đầu năm 2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế đến tỉnh chiếm tỷ trọng lớn như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nga, Đức, Anh, Mỹ…

Doanh thu dịch vụ lưu trú trong tháng ước đạt 518,7 tỷ đồng, tăng 5,83% với tháng trước và tăng 2,08% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 1.692,9 tỷ đồng, tăng 7,06% so với tháng trước và tăng 10,81% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 21,9 tỷ đồng, tăng 1,66% so với tháng trước và tăng 37,45% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 1.484 tỷ đồng, tăng 1,61% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 4.792,1 tỷ đồng, tăng 8,68% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 67 tỷ đồng, tăng 45,56% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 2.816,8 tỷ đồng, tăng 2,33% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ ăn uống ước đạt 8.823,8 tỷ đồng, tăng 5,53% so với cùng kỳ năm trước; hoạt động lữ hành hỗ trợ du lịch ước đạt 118,3 tỷ đồng, tăng 36,12% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng ước đạt 2.064,3 tỷ đồng tăng 4,63% so với tháng trước và tăng 0,23% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 ước đạt 6.130,1 tỷ đồng, tăng 2,62% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 11.832,2 tỷ đồng, tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước.

4. Xuất nhập khẩu

 Trong bối cảnh thương mại toàn cầu gặp nhiều khó khăn, xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục xu hướng tăng so với cùng kỳ (tăng 3,30%); mặt hàng sản phẩm gỗ, giày dép, hàng hóa khác có mức tăng khá. Kim ngạch nhập khẩu ước tăng 20,01% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như thủy sản và nông sản giảm so với cùng kỳ (giảm lần lượt 9,87% và 31,16%).

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong tháng ước đạt 71,7 triệu USD, tăng 14,40% so với tháng trước và tăng 14,38% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó nhóm hàng thủy sản ước đạt 19,8 triệu USD, tăng 21,60% so với tháng trước và tăng 15,37% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản ước đạt 0,8 triệu USD, giảm 30% so với tháng trước và giảm 41,61% so với cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hóa khác ước đạt 50,9 triệu USD, tăng 12,97% so với tháng trước và tăng 15,82% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 339,4 triệu USD, tăng 3,30% so với cùng kỳ, trong đó: hàng thủy sản ước đạt 92,6 triệu USD, giảm 9,87%; hàng nông sản ước đạt 4,9 triệu USD, giảm 31,16%; hàng hóa khác ước đạt 241,9 USD, tăng 10,61%. Nhóm hàng thủy sản và hàng nông sản giảm do ít đơn đặt hàng và các mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong 2 nhóm hàng này đều giảm như tôm thẻ, mực tươi, thủy sản tươi khác, thanh long, điều, cao su.

+ Xuất khẩu trực tiếp 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt gần 334,4 triệu USD, tăng 2,51% so với cùng kỳ năm trước. Thị trường Châu Á tăng 7,94%; thị trường Đông Á (chủ yếu Nhận Bản, Hàn Quốc và Đài Loan) giảm nhẹ; thị trường Châu Âu tăng 39,94%; thị trường Đông Âu giảm mạnh (giá trị chỉ đạt 34,73% so cùng kỳ), thị trường Châu Mỹ (chủ yếu Mỹ và Canada), Châu Phi và Châu Đại Dương đều giảm giá trị ở những tháng đầu năm. Một số nước xuất khẩu chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch của tỉnh như: Nhật Bản (mặt hàng chủ yếu như tôm, cá, thủy sản khác, dệt may...), Đài Loan (mặt hàng chủ yếu như bộ quần áo, thủy sản khác…), Mỹ (mặt hàng chủ yếu như giày dép, thủy sản…), Belizơ (chủ yếu là mặt hàng đế giày các loại), Trung Quốc (mặt hàng chủ yếu như thủy sản, giày dép, các loại quặng…), Côlômbia (mặt hàng giày dép, mực tươi), Campuchia và Philippin (chủ yếu là mặt hàng nguyên liệu chế biến thức ăn chăn nuôi).

+ Ủy thác xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 5 triệu USD, tăng gấp 2,12 lần so với cùng kỳ năm trước. Mặt hàng ủy thác chủ yếu: Mực tươi đông lạnh (tăng 2,82 lần), Quần áo các loại (2,07 lần).

- Kim ngạch nhập khẩu trong tháng ước đạt 132 triệu USD, giảm 3,56% so với tháng trước và tăng 16,88% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 671,5 triệu USD, tăng 20,01% so với cùng kỳ năm trước. Chủ yếu vẫn là nhập khẩu thức ăn gia súc và nguyên liệu, hàng thủy sản, nguyên liệu dệt may, da giày, hạt điều thô,...

5. Hoạt động vận tải

Hoạt động vận tải, kho bãi 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra khá nhộn nhịp. Đặc biệt những dịp Tết Nguyên đán, Giỗ Tổ Hùng Vương, Ngày giải phóng Bình Thuận 19/4, Ngày giải phóng Miền Nam 30/4, Ngày Quốc tế Lao động 01/5 và các ngày nghỉ cuối tuần nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa phục vụ người dân tăng cao. Hoạt động vận tải đường thuỷ diễn ra thông suốt phục vụ cho du khách và người dân đảo Phú Quý.

- Vận tải hành khách:

+ Lượt khách vận chuyển trong tháng ước đạt 1.392,3 nghìn HK, giảm 0,67% so với tháng trước và tăng 21,67% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 129.642,2 nghìn HK.Km, giảm 0,66% so với tháng trước và tăng 14,41% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 4.269 nghìn HK, tăng 20,03% so với quý cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 399.151,4 nghìn HK.Km, tăng 19,23% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, lượt khách vận chuyển ước đạt 7.851 nghìn HK, tăng 19,49% so với cùng kỳ năm trước; lượt khách luân chuyển ước đạt 787.960,4 nghìn HK.Km, tăng 18,73% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng lượt khách vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.367,3 nghìn HK, giảm 0,63% so với tháng trước và tăng 21,89% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 4.193,4 nghìn HK, tăng 20,19% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 7.711,4 nghìn HK, tăng 19,48% so với cùng kỳ năm trước. Vận chuyển hành khách đường thủy đạt 24,9 nghìn HK, giảm 2,53% so với tháng trước và tăng 10,54% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 lượt khách vận chuyển ước đạt 74,6 nghìn HK, tăng 10,28% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 139,6 nghìn HK, tăng 19,97% so với cùng kỳ. Luân chuyển hành khách đường bộ đạt 127.315,8 nghìn HK.km, giảm 0,60% so với tháng trước và tăng 14,42% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 lượt khách luân chuyển ước đạt 392.057,8 nghìn HK.Km, tăng 19,36% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 774.683,8 nghìn HK.Km, tăng 18,65% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hành khách đường thủy đạt 2.326,4 nghìn HK.Km, giảm 4,03% so với tháng trước và tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 lượt khách luân chuyển ước đạt 7.093,6 nghìn HK.Km, tăng 12,85% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 13.276,6 nghìn HK.Km và tăng 23,79% so với cùng kỳ năm trước.

- Vận tải hàng hóa:

+ Khối lượng vận chuyển trong tháng ước đạt 627,5 nghìn tấn, tăng 3,98% so với tháng trước và tăng 14,05% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 52.469,6 nghìn tấn.Km, tăng 0,21% so với tháng trước và tăng 17,44% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 1.709,5 nghìn tấn, tăng 5,30% so với quý cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 172.174,1 nghìn tấn.Km, tăng 24,89% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024, khối lượng vận chuyển ước đạt 3.451,5 nghìn tấn, tăng 8,99% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển ước đạt 322.463,1 nghìn tấn.Km, tăng 23,46% so với cùng kỳ năm trước.

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng khối lượng vận chuyển hàng hóa đường bộ đạt 625 nghìn tấn, tăng 3,97% so với tháng trước và tăng 13,92% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 1.702,5 nghìn tấn, tăng 5,18% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 3.438,5 nghìn tấn, tăng 8,88% so với cùng ỳ năm trước. Vận chuyển hàng hóa đường thủy đạt 2,5 nghìn tấn, tăng 5,45% so với tháng trước, tăng 57,85% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 khối lượng vận chuyển ước đạt 7 nghìn tấn, tăng 46,55% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 13 nghìn tấn, tăng 45,63% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hàng hóa đường bộ đạt 52.179,4 nghìn tấn.Km, tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 17,24% so với cùng kỳ năm trước; quý II/2024 khối lượng luân chuyển ước đạt 171.353,2 nghìn tấn.Km, tăng 24,78% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 321.029,2 nghìn tấn.Km, tăng 23,37% so với cùng kỳ năm trước. Luân chuyển hàng hóa đường thủy đạt 290,2 nghìn tấn.Km, tăng 7,42% so với tháng trước, tăng 66,93% so cùng kỳ năm trước; quý II/2024 khối lượng luân chuyển ước đạt 819,9 nghìn tấn.Km, tăng 54,68% so với quý cùng kỳ năm trước; lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.433,9 nghìn tấn.Km và tăng 47,68% so với cùng kỳ năm trước.

- Doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi trong tháng ước đạt 293,6 tỷ đồng, giảm 0,24% so với tháng trước và tăng 11,37% so với cùng kỳ năm trước. Quý II/2024 ước đạt 887,2 tỷ đồng, tăng 19,18% so với quý cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 1.725,5 tỷ đồng, tăng 19,49% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 735,5 tỷ đồng, tăng 15,17% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 765 tỷ đồng, tăng 13,77%; doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 221,3 tỷ đồng, tăng 71,10%; doanh thu bưu chính, chuyển phát ước đạt 3,7 tỷ đồng, tăng 0,27% so với cùng kỳ năm trước.

- Khối lượng hàng hóa vận chuyển qua cảng quốc tế Vĩnh Tân trong tháng ước đạt 151 ngàn tấn. Trong đó: xuất cảng 100 ngàn tấn (tro bay, cát, xỉ than, muối xá, quặng); nhập cảng 51 ngàn tấn (xi măng, cao lanh, máy móc, muối xá). Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 685,3 ngàn tấn tăng 3,2% so với cùng kỳ, trong đó xuất cảng 543,1 ngàn tấn (muối xá, tro bay, quặng, cát, xỉ than); nhập cảng 142,2 ngàn tấn (muối xá, túi xi măng, cao lanh, máy móc).

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu, chi ngân sách

Thu ngân sách trong tháng ước đạt 680 tỷ đồng, giảm 29,61% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 5.543,1 tỷ đồng, đạt 55,43% dự toán năm và giảm 0,53% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó thu nội địa ước đạt 4.883,6 tỷ đồng, đạt 54,23% dự toán và giảm 2,15%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí và thu khác ước đạt 4.334,3 tỷ đồng, đạt 57,02% dự toán; giảm 7,98%. Các khoản thu về nhà, đất ước đạt 549,3 tỷ đồng, đạt 39,13% dự toán; tăng 95,49% (trong đó thu tiền sử dụng đất ước đạt 310,1 tỷ đồng, đạt 25,84% dự toán; tăng 43,36%). Thu thuế xuất nhập khẩu 659,5 tỷ đồng, đạt 66,28% dự toán toán năm và tăng 13,44% so với cùng kỳ năm trước.

Có 11/16 khoản thu ước đạt trên 50% kế hoạch, gồm: Thu ngoài quốc doanh ước đạt 1.240 tỷ đồng, đạt 74,74% dự toán, tăng 8,67% so với cùng kỳ năm trước; Thuế thu nhập cá nhân ước đạt 452 tỷ đồng, đạt 63,22% dự toán, tăng 4,95%; Thuế bảo vệ môi trường ước đạt 190 tỷ đồng, đạt 54,29% dự toán, tăng 14,8%; Thu khác ngân sách ước đạt 167 tỷ đồng, đạt 69,58% dự toán, tăng 6,55%; Thu hoa lợi công sản từ quỹ đất công ích ước đạt 4,6 tỷ đồng, đạt 92% dự toán, tăng 27,35%; Thu xổ số kiến thiết ước đạt 1.107 tỷ đồng, đạt 61,5% dự toán, tăng 9,53%; Thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản ước đạt 80 tỷ đồng, đạt 133,33% dự toán, tăng 104,38%; Tiền thuê mặt đất, mặt nước ước đạt 232 tỷ đồng, đạt 122,11% dự toán, tăng 300,35%; Thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 541 tỷ đồng, đạt 54,48% dự toán, giảm 21,23%; Thu phí - lệ phí ước đạt 105 tỷ đồng, đạt 56,76% dự toán, giảm 0,33%; Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp ước đạt 6,9 tỷ đồng, đạt 53,15% dự toán, tăng 3,91 %.

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu trong tháng ước đạt 253 tỷ đồng, lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước thu đạt 2.291,20 tỷ đồng, đạt 67,13% dự toán và tăng 17,61% cùng kỳ năm trước. Trong đó: Phan Thiết ước đạt 952,3 tỷ đồng (đạt 69,56% dự toán; tăng 51,52%); La Gi ước đạt 189,5 tỷ đồng (đạt 99,20% dự toán, tăng 38,86%); Tuy Phong ước đạt 197,4 tỷ đồng (đạt 58,58% dự toán, tăng 28,34%); Bắc Bình ước đạt 213,8 tỷ đồng (đạt 54,11% dự toán, giảm 24,40%); Hàm Thuận Bắc ước đạt 239,4 tỷ đồng (đạt 64,36% dự toán, tăng 5,07%); Hàm Thuận Nam ước đạt 169,5 tỷ đồng (đạt 55,58%, tăng 1,93%); Đức Linh ước đạt 116,80 tỷ đồng (đạt 92,66% dự toán, giảm 0,06%); Tánh Linh ước đạt 58,4 tỷ đồng (đạt 56,11% dự toán, giảm 7,71%); Hàm Tân ước đạt 133,2 tỷ đồng (đạt 69,75% dự toán, giảm 15%); Phú Quý ước đạt 21 tỷ đồng (đạt 91,30% dự toán, tăng 37,80%). Khối sở, ngành cấp tỉnh ước 2.592,4 tỷ đồng, đạt 46,40% dự toán và giảm 14,80% cùng kỳ năm trước.

Chi ngân sách đáp ứng kịp thời cho các nhu cầu chi lương và hoạt động thường xuyên của các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, chi đầu tư phát triển; chi cho các nhiệm vụ trọng tâm; chi thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Tổng chi ngân sách Nhà nước trong tháng ước thực hiện 1.658,9 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 4.936,1 tỷ đồng, tăng 4,16% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó chi thường xuyên 3.722,3 tỷ đồng, tăng 17,84%.

2. Hoạt động tín dụng

Đến 31/5/2024, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 89.790 tỷ đồng, tăng 2,21% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 9,62%). Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 88.228 tỷ đồng, chiếm 98,26% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 56.827 tỷ đồng, chiếm 63,29% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay phân theo các mức lãi suất: lãi suất nhỏ hơn hoặc bằng 6%/năm chiếm khoảng 5,89% tổng dư nợ, lãi suất từ 6-7%/năm chiếm khoảng 7,63% tổng dư nợ, lãi suất trong khoảng 7-9%/năm chiếm 34,90% tổng dư nợ, lãi suất từ 9-12%/năm chiếm khoảng 42,82% tổng dư nợ, lãi suất trên 12%/năm chiếm khoảng 8,76% tổng dư nợ. Ước đến 30/6/2024, tổng dư nợ đạt 90.046 tỷ đồng, tăng 2,50% so với cuối năm 2023.

Lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng 1,6-2%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng 2,9-4,7%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên 4,7-4,8%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 4%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân 5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7,5-13%/năm.

Vốn huy động ước đến 31/5/2024 đạt 57.900 tỷ đồng, giảm 0,13% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 6,43%). Ước đến 30/6/2024, vốn huy động đạt 58.556 tỷ đồng, tăng 1% so với cuối năm 2023.

Tiếp tục triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời tăng cường các biện pháp xử lý nợ xấu, đặc biệt là xử lý tài sản bảo đảm, thu hồi nợ của khách hàng vay; hạn chế, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh mới. Đến 31/5/2024, nợ xấu nội bảng trên địa bàn 2.483,4 tỷ đồng, chiếm 2,77% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu tăng 0,53% so với đầu năm.

Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 51.478 tỷ đồng, chiếm 57,33% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 669 tỷ đồng, chiếm 0,75% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 16.937,9 tỷ đồng, chiếm 18,86% tổng dư nợ.

Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Tổng số tiền cho vay từ đầu chương trình 1.075,49 tỷ đồng/120 tàu. Doanh số thu nợ từ đầu chương trình 192,6 tỷ đồng. Dư nợ (nội bảng) 55,54 tỷ đồng/21 tàu (trong đó, cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ 8,61 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ 46,93 tỷ đồng). Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ 15,47 tỷ đồng/15 tàu, nợ ngoại bảng 827,28 tỷ đồng/88 tàu, số tàu đã trả hết nợ 11 tàu.

Các đối tượng chính sách vay theo các chương trình tín dụng ưu đãi với dư nợ cho vay đạt 4.849 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP đạt 208,3 tỷ đồng cho vay hỗ trợ việc làm, duy trì và mở rộng việc làm đạt 1.113,6 tỷ; cho vay hộ mới thoát nghèo đạt 731,94 tỷ đồng; cho vay hộ sản xuất kinh doanh vùng khó khăn đạt 231,1 tỷ đồng,...Về chương trình tín dụng cho vay nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, cải tạo xây dựng lại chung cư cũ theo Nghị quyết số 33/NQ-CP và chương trình tín dụng đối với lĩnh vực lâm sản, thủy sản: chưa có phát sinh số liệu cho vay.

Các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt, không có trường hợp đầu cơ, tích trữ gây rối loạn thị trường. Doanh số mua bán ngoại tệ lũy kế đến 31/05/2024 đạt 195 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 73 triệu USD. Thị trường vàng tương đối ổn định, không có trường hợp đầu cơ, tích trữ gây rối loạn thị trường, không có hiện tượng người dân xếp hàng đi mua vàng miếng hoặc nhu cầu về vàng miếng tăng đột biến.

Đến 31/05/2024, trên địa bàn có 209 máy ATM, tăng 02 máy so với đầu năm và 1.806 máy POS, giảm 42 máy so với đầu năm (do các ngân hàng thực hiện rà soát, sắp xếp lại việc lắp đặt máy cho hiệu quả, tránh trùng lắp, một số máy POS được thu hồi nhưng chưa triển khai lắp đặt lại tại nơi khác), các máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Đến nay tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động tại các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn là khoảng 92% và tỷ lệ người dân từ 15 tuổi trở lên có tài khoản thanh toán đang còn hoạt động có đăng ký sử dụng các dịch vụ thanh toán điện tử đạt khoảng 67%.

V. Lĩnh vực Văn h - Xã hội

1. Hoạt động Văn hóa - Thể dục thể thao

1.1 Hoạt động Văn hóa

* Hoạt động tuyên truyền, cổ động: Tuyên truyền kỷ niệm 134 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 113 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, 95 năm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam; tuyên truyền Tháng hành động vì Trẻ em năm 2024, Ngày Gia đình Việt Nam 28/6, Tuần lễ Biển và Hải đảo Việt Nam, Ngày Đại dương thế giới, Ngày Môi trường Thế giới, Tháng hành động vì môi trường năm 2024, Ngày Thế giới không hút thuốc lá 31/5, Tuần lễ quốc gia không hút thuốc lá, Tháng hành động phòng, chống ma túy năm 2024. Biểu diễn 09 buổi văn nghệ tuyên truyền và 75 buổi chiếu phim lưu động phục vụ Nhân dân các huyện thu hút 22.500 lượt người xem.

* Hoạt động Thư viện: Cấp 182 thẻ (thiếu nhi 68 thẻ), 206.483 lượt bạn đọc (tại thư viện 1.936 lượt (thiếu nhi 480 lượt), truy cập website 197.421 lượt, qua youtube 2.700 lượt, khai thác sách trực tuyến 675 lượt, truy cập Fanpage 3.751 lượt, sử dụng phòng máy tính 155 lượt; luân chuyển 2.783 lượt sách, tài liệu (thư viện 2.783 lượt (thiếu nhi 713 lượt), tuyên truyền qua website 448 lượt). Sưu tầm 141 tin, bài thông tin tư liệu Bình Thuận; biên soạn 01 tập thông tin chuyên đề, giới thiệu 30 bản sách mới, 243 tài liệu tuyên truyền; bổ sung 900 bản sách; số hóa 8.145 trang/32 tài liệu; đóng 62 tập báo, tạp chí; xử lý kỹ thuật 1.298 bản sách.

* Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Đã đón 36.879 lượt khách đến tham quan (trong đó có 920 lượt khách quốc tế) Phục vụ chu đáo lễ viếng của đoàn lãnh đạo, các sở, ban, ngành, đoàn thể đến dâng hương viếng Bác và tổ chức trưng bày triển lãm 96 ảnh với chủ đề “Cuộc sống đời thường của Bác Hồ” nhân dịp kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và 113 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Sưu tầm, tiếp nhận 05 hiện vật.

1.2. Hoạt động thể thao

- Thể dục thể thao quần chúng: Tổ chức giải Bóng rổ 5x5 vô địch tỉnh Bình Thuận lần thứ II năm 2024 với sự tham gia của 108 vận động viên đến từ 9 Câu lạc bộ Bóng rổ trên địa bàn thành phố Phan Thiết và các huyện; giải Việt dã tỉnh Bình Thuận mở rộng năm 2024 với 158 vận động viên đến từ 18 đơn vị, câu lạc bộ trong tỉnh Bình Thuận và các tỉnh tham dự; tổ chức giải vô địch Kurash quốc gia năm 2024 với 484 vận động viên đến từ 21 đơn vị tỉnh, thành trên cả nước; giải Stop and Run Marathon Bình Thuận 2024 tại cung đường Hòa Thắng - Hòa Phú với sự tham gia của hơn 4.500 vận động viên trong và ngoài nước tham gia; Lễ Khai mạc hè, Ngày Olympic trẻ em, Tháng hành động vì trẻ em và Phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước, Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân năm 2024; Ngày Quốc tế Yoga tại Bình Thuận năm 2024 với hơn 500 Yogi tham gia; giải Muay Thai - Đạt Hòa Championship 2024 tại Công viên Võ Văn Kiệt, thành phố Phan Thiết với sự tham gia của 24 vận động viên nam, nữ trên cả nước.

- Thể thao thành tích cao: Đội tuyển Bơi - Lặn, Vovinam, Karate, Taekwondo, Judo tham dự các giải cụm, khu vực, quốc gia, đạt 66 huy chương (15 huy chương vàng, 20 huy chương bạc, 31 huy chương đồng).

2. Giáo dục và đào tạo

Tổ chức triển khai tốt nhiệm vụ năm học 2023 - 2024. Tiếp tục duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục bắt buộc đối với cấp tiểu học và phổ cập giáo dục trung học cơ sở mức độ 1. Đẩy mạnh công tác kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục; đến nay, toàn tỉnh có 230/536 trường đạt chuẩn quốc gia (đạt tỷ lệ 42,91%)[1]. Tăng cường đổi mới, nâng cao chất lượng, nội dung, cải tiến phương pháp dạy và học. Tổ chức các kỳ thi học sinh giỏi các cấp[2]; tổ chức tốt Kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ công lập trường THPT chuyên và THPT không chuyên năm học 2024 - 2025 và kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2024.

Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp trong các cơ sở giáo dục trung học, trong đó tập trung đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục hướng nghiệp. Chỉ đạo các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh đẩy nhanh các hoạt động truyền thông về giáo dục nghề nghiệp trong năm 2024. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp trong 6 tháng đầu năm cho 3.180 người, đạt 31,8% kế hoạch năm; tiếp tục triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Đã tổ chức chức xong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 hệ công lập trường trung học phổ thông chuyên và trung học phổ thông không chuyên năm học 2024-2025; kỳ kiểm tra sát hạch xét tuyển sinh vào lớp 10 Trường phổ thông dân tộc Nội trú tỉnh. Kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm nay, toàn tỉnh tổ chức một Hội đồng thi và 27 điểm thi đặt tại các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi đến thời điểm hiện nay là 13.177 thí sinh, gồm: 12.224 thí sinh đang học lớp 12 năm học 2023-2024; 472 thí sinh đang học lớp 12 hệ giáo dục thường xuyên năm học 2022-2023 và 481 thí sinh tự do; dự kiến 562 phòng thi.

3. Y tế

Trong tháng công tác giám sát, phát hiện và tích cực triển khai các biện pháp dự phòng, khoanh vùng, xử lý ngay khi phát hiện các ca bệnh truyền nhiễm đầu tiên được tăng cường; đảm bảo đầy đủ thuốc, hóa chất, vật tư sinh phẩm y tế phục vụ công tác phòng chống dịch; đảm bảo chế độ thông tin báo cáo dịch theo quy định. Kết quả, không phát hiện trường hợp nhiễm cúm A (H5N1), (H7N9) và bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm, không phát hiện ca bệnh lạ, bệnh dịch mới nổi; tình hình dịch bệnh lưu hành tại địa phương tương đối ổn định.

- Sốt xuất huyết Dengue: Trong tháng ghi nhận 77 ca mắc sốt xuất huyết, tăng 42,5% so tháng trước, giảm 52,8% so cùng kỳ năm trước; không có ca sốt huyết nặng; 00 ca tử vong. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận 553 ca mắc, 15 ca sốt xuất huyết nặng; chưa ghi nhận trường hợp tử vong.

- Bệnh tay chân miệng: Trong tháng ghi nhận 143 ca mắc, không có ca tử vong. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận 339 ca mắc, chưa ghi nhận trường hợp tử vong.

- Bệnh dại: Trong tháng ghi nhận 01 trường hợp mắc và tử vong tại huyện Tánh Linh. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận 07 trường hợp mắc /(nghi) và tử vong do dại.

- Công tác phòng chống Phong: Trong tháng không ghi nhận trường hợp mắc bệnh phong mới, Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 số bệnh nhân đang quản lý tại tỉnh là 352 bệnh nhân.

- Công tác phòng chống Lao: Trong tháng ghi nhận tổng số lượt khám 463 lượt; số bệnh nhân lao thu dung điều trị 110 bệnh nhân; số bệnh nhân lao AFB (+) phát hiện mới trong tháng 83 bệnh nhân. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 ghi nhận 501 bệnh nhân lao thu dung điều trị, 361 bệnh nhân lao AFB (+).

- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Tháng cao điểm dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con năm 2024. Trong tháng ghi nhận số ca nhiễm HIV mới 08 cas; số chuyển AIDS mới 02 cas, tử vong 03. Lũy kế từ trước đến nay số ca nhiễm HIV 1.824 ca; nhiễm HIV chuyển AIDS 1.123 ca; tử vong do AIDS 552 ca.

4. Khoa học - công nghệ; hoạt động thông tin truyền thông

Trong 6 tháng đầu năm 2024 hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trên địa bàn tỉnh tiếp tục được quan tâm triển khai đảm bảo theo quy định và định hướng phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Tổ chức kiểm tra tiến độ thực hiện 03 đề tài bao gồm: (1) Xây dựng, quản lý và phát triển thương hiệu du lịch tỉnh Bình Thuận; (2) Nghiên cứu các nguyên nhân gây sạt lở và đề xuất các giải pháp bảo vệ bờ khu vực hồ Bàu Trắng (3) Ứng dụng công nghệ sản xuất nha đam định hướng hữu cơ theo liên kết chuỗi trên vùng đất cát ven biển Bình Thuận.

Hạ tầng mạng viễn thông 3G, 4G được phát triển mở rộng phủ đến 98% dân số; băng rộng di động, băng rộng cố định (cáp quang) đã được phủ ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đảm bảo an toàn mạng lưới thông tin, thông tin liên lạc thông suốt. Chất lượng dịch vụ viễn thông, truyền hình cáp ngày càng nâng cao với các gói cước thấp nhất trước đây từ 40Mbps nay nâng lên 60Mbps, gói cước cao đã nâng lên 80Mbps.

Hạ tầng kỹ thuật CNTT được tiếp tục quan tâm đầu tư, nâng cấp mở rộng. Ứng dụng CNTT trong quản lý, điều hành, cải cách hành chính phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn, hiệu quả, minh bạch hóa thông tin. Đang đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện công tác chuyển đổi số, phát triển thương mại điện tử (Nghị quyết số 10-NQ/TU, ngày 18/3/2022 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XIV)). Thực hiện rà soát, đánh giá tình hình bảo đảm an toàn thông tin mạng đối với các hệ thống thông tin trên địa tỉnh; triển khai nền tảng hỗ trợ quản lý bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp độ theo hướng dẫn của Cục An toàn thông tin.

Triển khai hoàn thành việc sa thải, ngầm hóa cáp viễn thông tại các tuyến đường đã lót vỉa hè trên địa bàn thành phố Phan Thiết (13 tuyến đường), đảm bảo mỹ quan đô thị; đang chuẩn bị sắp xếp, chỉnh trang, làm gọn hệ thống cáp treo viễn thông trên địa bàn tỉnh trong năm 2024.

5. Lao động việc làm và thực hiện các chính sách xã hội

Trong tháng, đã giải quyết việc làm cho 1.944 lao động. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã giải quyết việc làm cho 13.345 lao động, đạt 66% so với kế hoạch và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm 2.280 lao động, đạt 162% so với kế hoạch năm.

Đã tuyển mới và đào tạo nghề nghiệp cho 1.758 người. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã tuyển mới đào tạo nghề nghiệp 4.638 người, đạt 46,38% so với kế hoạch và tăng 83,68% so với cùng kỳ năm trước.

Quỹ Đền ơn đáp nghĩa lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 (tính đến ngày 07/6/2024) đã vận động được tổng số tiền 5,09 tỷ đồng, đạt 84,80% so với kế hoạch năm, trong đó: Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cấp tỉnh 1,06 tỷ đồng, đạt 70,50%; Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cấp huyện 4,03 tỷ đồng, đạt 89,50%. Quỹ Bảo trợ trẻ em lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã vận động được tổng số tiền là 1,75 tỷ đồng, đạt 87,56% so với kế hoạch năm.

Trong tháng tiếp tục đưa người có công với cách mạng điều dưỡng tập trung tại Bến Tre, Vĩnh Long, lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 đã tổ chức đưa trên 300 người có công với cách mạng và thân nhân người có công với cách mạng điều dưỡng tập trung năm 2024 tại các tỉnh, thành phố: Đà Lạt, Bến Tre, Vũng Tàu, Tây Ninh và Nha Trang. Thăm tặng quà Tết Nguyên đán của Chủ tịch nước và tỉnh cho người có công; tặng quà cho 73 chiến sĩ và gia đình thân nhân liệt sĩ, chiến sĩ Điện Biên, thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến trực tiếp tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (07/5/1954-7/5/2024).

Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 2.110 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý, trong đó: quản lý, giáo dục, lao động trị liệu và chăm sóc sức khỏe tại Cơ sở điều trị nghiện ma túy tỉnh là 371/3 nữ; tự điều trị bằng thuốc thay thế Methadone tại cơ sở y tế 662 người; 1.077 đang được các ban, ngành, đoàn thể ở nơi cư trú quản lý giáo dục; quản lý trong tại tạm giam, nhà tạm giữ 98 người, Trường giáo dưỡng: 01 người. Có 111/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma tuý, chiếm 89,52% số xã, phường, thị trấn.

6. Chính sách liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số

Trong 6 tháng đầu năm 2024, đã tổ chức quán triệt, tuyên truyền và triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc; tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và hoạt động tôn giáo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số cơ bản ổn định. Tổ chức các đoàn đến thăm, chúc tết Đầu lúa, tết Nguyên đán Giáp Thìn, tết Ramưwan 2024 đối với các thôn, xã, chùa và các đối tượng chính sách, chức sắc, già làng, người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cung ứng đầy đủ, kịp thời vật tư, hàng hóa phục vụ nhu cầu sản xuất bắp lai, lúa nước và phối hợp triển khai cho các hộ đồng bào đăng ký nhu cầu đầu tư ứng trước năm 2024. Ngoài ra, thực hiện các quy định chế độ hỗ trợ cho học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số trên địa bàn.

7. Hoạt động bảo hiểm

Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng.

Tính đến ngày 31/5/2024, toàn tỉnh có 98.967 người tham gia BHXH bắt buộc, đạt 95% kế hoạch năm (tăng 2,61% so với cùng kỳ); có 90.474 người tham gia BHTN, đạt 94,50% kế hoạch năm (tăng 2,98%); số người tham gia BHXH tự nguyện 8.947 người, đạt 33,30% kế hoạch năm (giảm 5,76%); số người tham gia BHYT 1.056.856 người, bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 11.405 người, đạt 90,70% kế hoạch năm (tăng 1,05%); tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 90,98% dân số (bao gồm người dân làm việc, học tập ngoài tỉnh). Ước đến 30/6/2024, toàn tỉnh có 100.918 người tham gia BHXH bắt buộc (tăng 5,90% so với cùng kỳ); có 92.357 người tham gia BHTN (tăng 6,49%); số người tham gia BHXH tự nguyện 10.000 người (tăng 3,80%); số người tham gia BHYT 1.070.500 người, bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp (tăng 1,79%); toàn tỉnh tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 92,10% dân số (bao gồm người dân làm việc, học tập ngoài tỉnh).

Người thuộc hộ nghèo, cận nghèo theo danh sách cơ quan thẩm quyền phê duyệt đến tháng 5/2024 cơ bản đã được cấp thẻ BHYT; còn 07 người nghèo và 12 người thuộc hộ cận nghèo chưa được cấp thẻ BHYT. Số người nghèo, cận nghèo chưa cấp thẻ do chưa có số định danh hoặc sai sót thông tin.

Toàn tỉnh có 247.126/248.961 HSSV tham gia BHYT (Trong đó: Có 208.284 em tham gia tại trường học, 38.842 em tham gia theo nhóm khác), đạt tỷ lệ 99,30%, tăng 400 em so với tháng trước. Hiện còn 1.835 em chưa tham gia, chủ yếu là HSSV tham gia có thời hạn ngắn (3 tháng, 6 tháng) hết hạn thẻ nhưng chưa tham gia lại; người dân tộc thiểu số, người thuộc các xã bãi ngang không còn được ngân sách nhà nước hỗ trợ đóng BHYT. Đến tháng 5/2024, có 3.767 người tham gia BHYT theo diện hộ gia đình làm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình; lũy kế 5 tháng đầu năm tham gia 26.251 người; còn 53.137 người thuộc diện nhưng chưa tham gia.

Đến hết tháng 5/2024, đã xét duyệt giải quyết cho 28.463 lượt người hưởng các chế độ BHXH, BHTN, tăng 6,20% so với cùng kỳ 2023 (trong đó: 284 người hưởng chế độ BHXH dài hạn, 3.476 người hưởng trợ cấp thất nghiệp, 6.743 người hưởng trợ cấp BHXH một lần, 17.960 lượt người hưởng các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức-phục hồi sức khỏe).

Tổng số người đang hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH dài hạn quản lý đến đầu tháng 6/2024 là 18.442 người. Tính đến ngày 31/5/2024, tổng số thu 1.262,7 tỷ đồng, tăng 15,29% so với cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền chậm đóng BHXH, BHYT, BHTN, BHTNLĐ-BNN là 196,1 tỷ đồng, tỷ lệ chậm đóng phải thu 6,07% so với dự toán thu, cao hơn 1,01% so chỉ tiêu giảm tiền chậm đóng BHXH; tỷ lệ chậm đóng phải tính lãi 3,88%.

8. Tai nạn giao thông (từ 15/5 - 14/6/2024)

Tai nạn giao thông trong tháng xảy ra 53 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), tăng 05 vụ so với tháng trước và tăng 38 vụ với cùng kỳ năm trước; bị thương 52 người, tăng 03 người so với tháng trước và tăng 40 người so với cùng kỳ năm trước; số người chết 11 người, giảm 05 người so với tháng trước và tăng 01 người với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 6 tháng đầu năm 2024 xảy ra 300 vụ (trong đó có 02 vụ đường sắt), tăng 189 vụ so với cùng kỳ năm trước; bị thương 285 người, tăng 215 người so với cùng kỳ năm trước; số người chết 74 người (đường sắt 01 người chết), giảm 06 người so với cùng kỳ năm trước.

Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng và rất nghiêm trọng; 12 vụ nghiêm trọng; 15 vụ ít nghiêm trọng và 26 vụ va chạm. Lũy kế 6 tháng năm 2024 không xảy ra vụ tai nạn giao thông đặc biệt nghiêm trọng; có 01 vụ rất nghiêm trọng; 78 vụ nghiêm trọng, 38 vụ ít nghiêm trọng và 183 vụ va chạm. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát.

Chia theo các huyện, thị xã, thành phố 6 tháng đầu năm 2024: Phan Thiết xảy ra 76 vụ tai nạn giao thông, 84 người bị thương, 10 người chết; La Gi xảy ra 08 vụ tai nạn giao thông, 07 người bị thương, 02 người chết; Tuy Phong xảy ra 27 vụ tai nạn giao thông, 15 người bị thương, 08 người chết; Bắc Bình xảy ra 26 vụ tai nạn giao thông, 23 người bị thương, 06 người chết; Hàm Thuận Bắc xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông, 26 người bị thương, 16 người chết; Hàm Thuận Nam xảy ra 35 vụ tai nạn giao thông, 42 người bị thương, 07 người chết; Tánh Linh xảy ra 37 vụ tai nạn giao thông, 41 người bị thương, 08 người chết; Đức Linh xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, 20 người bị thương, 06 người chết; Hàm Tân xảy ra 25 vụ tai nạn giao thông, 21 người bị thương, 10 người chết; Phú Quý xảy ra 03 vụ tai nạn giao thông, 05 người bị thương, 01 người chết.

9. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

- Thiên tai: Trong tháng xảy ra 08 vụ thiên tai (tăng 5 vụ so với tháng trước và giảm 5 vụ so với cùng kỳ năm trước) do mưa lớn kèm theo lốc xoáy làm tốc mái 28 căn nhà (trong đó 01 trường mẫu giáo), diện tích lúa bị ngập 2.722 ha, hư hại 5 ha hoa màu và thiệt hại các tài sản khác, ước giá trị thiệt hại 7.207 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm xảy ra 13 vụ (giảm 9 vụ so cùng kỳ năm trước), ước thiệt hại 7.807 triệu đồng.

- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 4 vụ cháy, giảm 3 vụ so với tháng trước và giảm 03 vụ so với cùng kỳ năm trước, ước giá trị thiệt hại 810 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm xảy ra 28 vụ (tăng 21 vụ so cùng kỳ), ước thiệt hại 1.991,54 triệu đồng

- Vi phạm môi trường: Trong tháng đã phát hiện 6 vụ vi phạm môi trường, tăng 3 vụ so với tháng trước và tăng 3 với cùng kỳ năm trước; xử phạt 79 triệu đồng. Lũy kế từ đầu năm xảy ra 20 vụ (tăng 5 vụ so cùng kỳ năm trước), xử phạt 575,17 triệu đồng.

* Đánh giá chung:

Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2024 vẫn đạt được kết quả tích cực trên một số mặt, cụ thể:

Tổng sản phẩm nội tỉnh (GRDP) 6 tháng đầu năm 2024 dự ước tăng 7,1%, động lực chính trong tăng trưởng 6 tháng đầu năm là khu vực công nghiệp xây dựng. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, giảm tỷ trọng nông lâm nghiệp và thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực phi nông lâm thủy sản.

Sản xuất nông nghiệp về cơ bản ổn định; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi được kiểm soát, không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm. Sản lượng lương thực tăng so với cùng kỳ; chăn nuôi tiếp tục chuyển dịch tích cực và tăng trưởng khá; sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản tăng so với cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi được triển khai tích cực; quản lý bảo vệ rừng, nguồn lợi thủy sản, xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo.

Khu vực công nghiệp, giá trị tăng thêm tăng cao so với cùng kỳ. Vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tăng so cùng kỳ. Thường xuyên đôn đốc, rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất để thúc đẩy tiến độ thực hiện, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các dự án, công trình trọng điểm. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách.

Các ngành thương mại và dịch vụ tiếp tục duy trì sự tăng trưởng; trong đó doanh thu các ngành dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ vận tải tăng khá đã làm tăng sức mua của người dân trong tỉnh cũng như du khách; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng so với cùng kỳ năm trước. Ngành du lịch tiếp tục tăng trưởng, đặc biệt khách quốc tế đang trên đà tăng trở lại. Hoạt động vận tải đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong tỉnh; tuyến vận tải biển Phan Thiết - Phú Quý, cùng với tuyến cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, Phan Thiết - Vĩnh Hảo, Vĩnh Hảo - Cam Lâm đã góp phần làm cho lĩnh vực vận tải tăng cao.

Thu ngân sách nhà nước có nhiều cố gắng. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, phòng chống dịch bệnh, vệ sinh an toàn thực phẩm được quan tâm, thực hiện tốt; không có dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn tỉnh. Chất lượng giáo dục, đào tạo được duy trì. Hoạt động thể dục thể thao diễn ra khá sôi động, thể thao thành tích cao đạt được những kết quả tốt trên đấu trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, chăm lo cho các đối tượng chính sách, người nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình kinh tế - xã hội ở một số lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm 2024 vẫn còn khó khăn, hạn chế. Đó là:

Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và người dân vẫn còn gặp nhiều khó khăn; doanh nghiệp đối mặt với thách thức lớn để duy trì sản xuất kinh doanh, chờ đợi cơ hội tích cực hơn từ thị trường; số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng, số doanh nghiệp giải thể tăng.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa có tăng nhưng ở mức thấp, đặc biệt các hàng hóa lợi thế như: hàng thủy sản, hàng nông sản giảm mạnh; thu nội địa giảm so với cùng kỳ năm 2023. Việc liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm trong nông nghiệp còn nhiều khó khăn, bất cập.

Đội ngũ bác sỹ chuyên môn còn thiếu, cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế khó khăn, thiếu đồng bộ, điều kiện làm việc chưa đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh nhu cầu ngày càng cao của nhân dân. Đội ngũ giáo viên còn thừa thiếu cục bộ.

Tiến độ thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của một số dự án tuy được chỉ đạo quyết liệt nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra, nhất là một số công trình giao thông trọng điểm, khu công nghiệp.

CTK Bình Thuận

 

Kèm file: Số liệu KTXH 6 tháng đầu năm 2024



[1] Trong đó: cấp Mầm non có 59/142 trường công lập (41,54%), cấp Tiểu học có 101/238 trường (42,43%), cấp THCS có 69/130 trường (53,07%), cấp THPT có 01/26 trường (3,85%).

[2] Công nhận 717 học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏi lớp 9 THCS cấp tỉnh năm học 2023-2024 (15 giải Nhất, 94 giải Nhì và 608 giải Ba). Công nhận 584 học sinh đạt danh hiệu Học sinh giỏi lớp 12 THPT cấp tỉnh năm học 2023-2024 tỉnh (có 05 giải Nhất, 46 giải Nhì và 533 giải Ba). Tham dự Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2023-2024 đạt 14 giải (gồm 03 giải Ba và 11 giải Khuyến khích); Cuộc thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia học sinh trung học năm học 2023 - 2024 tại Bắc Giang (từ ngày 19/3 - 23/3/2024) đạt 01 giải Tư.




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/