Tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2019
Tổng diện tích trồng cây lâu năm 6 tháng đạt 106.088,4 ha, tăng 1,18% so cùng kỳ, tổng sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước đạt 100.088 tấn tăng 2,02% so cùng kỳ. Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp trong 6 tháng tiếp tục ổn định. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 6 ước đạt 4.552,9 tỷ đồng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao được đẩy mạnh,...
I. Nông - Lâm - Thuỷ sản
1. Trồng trọt:
* Cây hàng năm:
- Vụ đông xuân 2018-2019:
+ Diện tích gieo trồng cây hàng năm đạt 47.250,5 ha, đạt 103,6% kế hoạch vụ và giảm 1,19% so cùng kỳ năm trước (trong đó, diện tích cây lúa đạt 36.965 ha, đạt 102,7% kế hoạch vụ, giảm 1,85% so cùng kỳ năm trước; cây bắp đạt 3.539,2 ha, đạt 21,45% kế hoạch vụ và tăng 13,33% so cùng kỳ). Dự ước sản lượng lương thực đạt 268.304,1 tấn, tăng 0,01% so cùng kỳ (tăng 30 tấn). Trong đó, ước sản lượng lúa 240.365,8 tấn, giảm 1,48% so cùng kỳ; bắp đạt 27.938,4 tấn, tăng 14,93% so cùng kỳ).
+ Một số cây trồng khác sản lượng ước đạt: rau các loại 28.668,8 tấn (tăng 16,61% so cùng kỳ năm trước; đậu các loại 1.321 tấn (giảm 5,64% so cùng kỳ năm trước); đậu phụng 1.947,3 tấn (giảm 11,89% so cùng kỳ năm trước); khoai lang 1.099,3 tấn (giảm 2,8% so cùng kỳ năm trước).
+ Nhằm phát huy hiệu quả sử dụng đất và tăng cường tiết kiệm nguồn nước tưới, trong vụ Đông Xuân 2018 - 2019, toàn tỉnh đã thực hiện chuyển đổi 4.769 ha đất lúa kém hiệu quả sang trồng các cây ngắn ngày khác hiệu quả hơn (bắp 2.221 ha; rau 889 ha; đậu phộng 583 ha; mè, đậu các loại 701 ha; dưa hấu 184 ha; cây trồng khác 191 ha). Chương trình xã hội hoá giống lúa được chú trọng triển khai; toàn tỉnh đã thực hiện 518 ha giống lúa xác nhận; đồng thời, tiếp tục duy trì 3.000 ha lúa chất lượng cao tại huyện Tánh Linh.
- Tiến độ sản xuất vụ Hè thu 2019: Tính đến ngày 15/6/2019, tổng diện tích gieo trồng 63.459,6 ha đạt 99,2% kế hoạch vụ và tăng 39,1% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, lúa 33.822 ha đạt 82,49% kế hoạch vụ, giảm 4% so vụ cùng kỳ; bắp 6.085,4 ha đạt 76,1% kế hoạch vụ, tăng gấp 2,2 lần so cùng kỳ.
* Cây lâu năm:
Tổng diện tích trồng cây lâu năm 6 tháng đạt 106.088,4 ha, tăng 1,18% so cùng kỳ (+1.239,1 ha), trong đó diện tích cây công nghiệp lâu năm 63.567,3 ha giảm 0,6% so cùng kỳ (-380 ha); cây ăn quả lâu năm đạt 40.949 ha tăng 4,2% so cùng kỳ (+ 1.662 ha); cây lâu năm còn lại 1.572,1 ha giảm 2,6 % so cùng kỳ (-42,8 ha).
- Cây thanh long: Tổng diện tích toàn tỉnh hiện nay ước đạt 29.417,6 ha, tăng 5,1% so cùng kỳ (+1.426,6 ha); sản lượng thu hoạch ước đạt 307.470 tấn, tăng 5,7% so cùng kỳ (+16.682,1 tấn), sản lượng tăng chủ yếu là do diện tích đến kỳ cho thu hoạch sản phẩm tăng.
- Cây điều: Tổng diện tích toàn tỉnh hiện nay ước đạt 17.481 ha, tăng 0,6% so cùng kỳ (+108,3 ha), do năm nay thời tiết thuận lợi, giá ổn định đã khuyến khích nhà vườn đầu tư trở lại. Năng suất ở các địa phương phía nam như Hàm Tân, Tánh Linh, Đức Linh tăng khá.
- Cây cao su: Tổng diện tích toàn tỉnh hiện nay ước đạt 42.335,7 ha, giảm 0,85% so cùng kỳ (-365 ha). Diện tích cao su giảm do giá vẫn đang ở mức thấp, một số vườn lâu năm, năng suất kém chặt bỏ để trồng cây khác. Sản lượng cây cao su ước đạt 13.520 tấn tăng 3,93% so cùng kỳ (+500,9 tấn), sản lượng tăng chủ yếu là do tăng diện tích đến kỳ cho thu hoạch sản phẩm.
- Cây tiêu: Tổng diện tích toàn tỉnh đến thời điểm tháng 6 năm 2019 ước đạt 1.514,6 ha, giảm 10,91% so cùng kỳ (-185,4 ha). Sản lượng thu hoạch ước đạt 1.610 tấn giảm 10,11% so cùng kỳ (-181 tấn). Nguyên nhân giảm là do nấm bệnh diện tích tiêu chết.
- Cây cà phê: Tổng diện tích toàn tỉnh hiện nay ước đạt 2.236 ha, tăng 2,9% so cùng kỳ (+ 62 ha).
Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.
* Tình hình sâu bệnh: 6 tháng đầu năm tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: diện tích nhiễm rầy nâu, bạc lá, đạo ôn lá trên cây lúa có tăng so cùng kỳ năm trước.
- Cây bắp: Đã phát hiện đối tượng sâu keo mùa thu gây hại trên cây bắp trên địa bàn hai huyện Đức Linh và Bắc Bình với diện tích nhiễm nặng là 35 ha. Đây là đối tượng dịch hại mới xuất hiện và có khả năng gây hại mạnh, cần theo dõi phát hiện sớm và có biện pháp phòng trừ kịp thời.
- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu trong kỳ 686,5 ha, tăng 147,5 ha so cùng kỳ năm trước. Nám vàng cành gây hại trên diện tích 2.043 ha, tăng 85 ha so cùng kỳ năm trước. Các đối tượng khác gây hại rải rác trên toàn vùng trồng thanh long; Bệnh thối cành quả vi khuẩn gây hại trong kỳ với diện tích nhiễm là 1.228 ha, tăng 310 ha so cùng kỳ năm trước; Các đối tượng sâu bệnh khác gây hại rải rác và có xu hướng tăng như bệnh thán thư, ốc sên...
* Tình hình tưới vụ Đông Xuân 2018 - 2019:
- Kết quả tưới vụ Đông Xuân 2018 - 2019, diện tích tưới lúa, hoa màu thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh đạt 30.266 ha/31.359 ha KH, đạt 96,5% KH; diện tích tưới cây thanh long và các loại cây trồng khác là 18.850 ha/ 18.850 ha KH, đạt 100% KH.
- Tính đến ngày 07/6/2019, tổng diện tích gieo trồng vụ Hè Thu 2019 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh là 36.121 ha/51.967 ha Kế hoạch, đạt 69,51%, trong đó cây lúa và cây màu 17.190 ha/33.117 ha KH, đạt 51,91% KH; cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày 18.931/18.850 ha KH, đạt 100,43% KH.
2. Chăn nuôi:
Tình hình chăn nuôi phát triển ổn định, tại thời điểm 15/6/2019, số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh như sau:
- Đàn trâu, bò: Có 175.829 con, tăng 1,37% so cùng kỳ (đàn trâu 8.949 con, giảm 0,21%; đàn bò 166.880 con, tăng 1,45%). Nhìn chung, số lượng đàn trâu giảm nhẹ so cùng kỳ, đàn bò tiếp tục duy trì và phát triển, không có bệnh dịch xảy ra.
- Đàn lợn: Có 274.100 con, tăng 3,98% so cùng kỳ. Tình hình dịch bệnh ở tỉnh ta có xảy ra, nhưng không ảnh hưởng lớn vẫn tập trung phát triển tổng đàn.
- Đàn gia cầm: Giá đầu ra ổn định, tình hình dịch bệnh không xảy ra nên đàn gia cầm phát triển khá thuận lợi. Toàn tỉnh có 3.293 ngàn con, tăng 3,85% so cùng kỳ.
* Công tác phòng, chống dịch:
Đã thành lập 02 chốt kiểm dịch động vật tạm thời trên Quốc lộ 1A và 7 chốt kiểm dịch động vật tạm thời tại các huyện trên địa bàn tỉnh. Đã xuất hiện 03 ổ dịch tả lợn Châu phi tại xã Đức Chính huyện Đức Linh, xã Gia An huyện Tánh Linh và 01 ổ dịch tại xã Tân Phước Thị xã La Gi, với tổng số con bị mắc bệnh là toàn tỉnh là 848 con.
- Công tác tiêm phòng: Trong tháng 6 các địa phương trên toàn tỉnh đã tổ chức tiêm phòng 724.247 liều vắc xin; lũy kế 6 tháng 5.451.765 liều, trong đó đàn trâu, bò 90.210 liều; đàn heo 378.048 liều; đàn gia cầm 4.978.890 liều.
- Kiểm dịch động vật: Trong tháng đã kiểm dịch 112.891 con lợn; 1.473 con trâu, bò; 339.598 con gia cầm; 710 con dê. Lũy kế 6 tháng kiểm dịch 706.072 con lợn; 15.821 con trâu, bò; 2.240.678 con gia cầm; 11.072 con dê.
3. Lâm nghiệp:
- Trong tháng, diện tích rừng trồng ước đạt 1.177 ha, tăng 2,4% so cùng kỳ; lũy kế 6 tháng ước đạt 2.021 ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ.
- Công tác bảo vệ rừng được tăng cường, ngăn chặn tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất lâm nghiệp, kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh với các tỉnh, làm tốt công tác phòng cháy, chữa cháy rừng. Tính từ đầu năm đến ngày 15/6/2019, toàn tỉnh đã xảy ra 15 trường hợp cháy thực bì dưới tán rừng với diện tích 23,74 ha, giảm 14 trường hợp so cùng kỳ; các vụ cháy chủ yếu cháy trảng cỏ, cây bụi, lá khô dưới tán rừng được huy động chữa cháy kịp thời nên không gây hại về tài nguyên rừng.
- Vi phạm lâm luật: Lũy kế 6 tháng có 197 vụ (trong đó khai thác gỗ và lâm sản trái phép 55 vụ; mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 41 vụ, phá rừng trái phép 17 vụ, vi phạm khác 74 vụ). Từ đầu năm đến ngày 10/6/2019 đã xử lý hành chính 180 vụ, lâm sản tịch thu 211,6 m3; nộp ngân sách 18,74 tỷ đồng.
4. Thuỷ sản:
- Tổng sản lượng thuỷ sản 6 tháng đầu năm ước đạt 100.088 tấn tăng 2,02% so cùng kỳ:
+ Nuôi trồng thủy sản: Tương đối ổn định, chú trọng triển khai công tác kiểm tra, quản lý môi trường và phòng trừ dịch bệnh tại các vùng nuôi thủy sản. Hiện tượng tôm chậm lớn và một số bệnh dịch như đỏ thân, bệnh hoại tử, bệnh phân trắng... có xảy ra rải rác nhưng không đáng kể và không ảnh hưởng đến tình hình nuôi trồng trên địa bàn tỉnh. Diện tích nuôi trồng ước đạt 1.382,8 ha, tăng 2,5%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 6 ước đạt 1.179,1 tấn, tăng 3,9% so cùng kỳ; lũy kế 6 tháng ước đạt 6.894 tấn, tăng 2,5% (tăng 169,6 tấn) so cùng kỳ năm trước.
+ Khai thác thuỷ sản: Ngư dân tích cực bám biển khai thác, các tàu thuyền có công suất lớn tập trung khai thác ở vùng biển xa đạt hiệu quả. Sản lượng khai thác ước đạt 93.193,9 tấn tăng 1,99% so cùng kỳ trong đó chủ yếu là khai thác biển đạt 92.890,2 tấn, tăng 2% so cùng kỳ; khai thác nội địa đạt 303,7 tấn tăng, 1,9% so cùng kỳ.
- Sản xuất giống thuỷ sản: Thời tiết thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản nên sản xuất tôm giống có chuyển biến tích cực. Hoạt động sản xuất tôm giống gắn với công tác kiểm dịch, phân tích xét nghiệm mẫu được duy trì thường xuyên. Sản lượng giống sản xuất chủ yếu là tôm giống, trong tháng ước đạt 2,2 tỷ con tăng 3,2% so cùng kỳ, lũy kế 6 tháng ước đạt 13,165 tỷ con, tăng 5,5% so cùng kỳ và đạt 54,85% kế hoạch. Công tác quản lý về nguồn gốc tôm, giám sát con giống luôn được tăng cường.
- Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản luôn được tăng cường kiểm tra, giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm khi sử dụng các biện pháp khai thác mang tính huỷ diệt nguồn lợi thuỷ sản như giã cào, mắt lưới nhỏ so quy định, xung điện, chất nổ... Số vụ vi phạm trong tháng (từ ngày 01 - 10/6/2019) có 26 vụ (giã cào đáy sai vùng khai thác 6 vụ, không đăng ký lại tàu cá đúng quy định 3 vụ, đóng mới tàu cá không có hoạt động giám sát 1 vụ, không bằng máy trưởng 1 vụ, không đăng ký lại tàu cá 2 vụ, không ghi nhật ký khai thác thủy sản 11 vụ, tàng trữ chất độc trên tàu cá 1 vụ, tàng trữ công cụ kích điện trên tàu cá 1 vụ); lũy kế 6 tháng (đến ngày 10/6/2019) có 268 vụ vi phạm (giã cào đáy sai vùng khai thác 18 vụ, giấy phép khai thác thủy sản quá hạn 68 vụ, hành nghề lặn trái phép 39 vụ, không bằng máy thuyền trưởng 6 vụ, khai thác sò điệp, sò lông nhỏ hơn quy định 24 vụ, không bằng máy thuyền trưởng 2 vụ, không có giấy phép khai thác thủy sản 7 vụ, không có sổ nhật ký khai thác thủy sản theo quy định 9 vụ, sử dụng kích điện trên tàu cá để khai thác thủy sản 21 vụ, không mang theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá 30 vụ, sử dụng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định 25 vụ, không ghi nhật ký khai thác thủy sản 14 vụ...). Thực hiện các giải pháp cấp bách khắc phục cảnh báo thẻ vàng của Ủy ban châu Âu, tỉnh đã tích cực tuyên truyền đến các chủ tàu, thuyền trưởng, ngư dân... tuân thủ các quy định pháp luật về khai thác hải sản. Tuy vậy, trong 6 tháng toàn tỉnh vẫn có 4 tàu cá (28 ngư dân) xâm phạm vùng biển các nước để đánh bắt hải sản trái phép, vì vậy ngành chức năng có liên quan cần có biện pháp quyết liệt và hiệu quả hơn để ngăn chặn tình trạng này.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp:
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 2010) 6 tháng đầu năm ước đạt 13.587,9 tỷ đồng, đạt 47,74% kế hoạch, tăng 10,95% so cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp khai khoáng 274,6 tỷ đồng (tăng 1,9%); công nghiệp chế biến chế tạo 7.833,2 tỷ đồng (tăng 3,58%); sản xuất và phân phối điện đạt 5.332,9 tỷ đồng (tăng 24,81%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 147,2 tỷ đồng (tăng 3,51%).
Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 6 ước tăng 12,18% so cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng tăng 11,94%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,60%; sản xuất và phân phối điện tăng 17,74%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,42%. Lũy kế 6 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,07% so cùng kỳ năm trước, cao hơn nhiều so mức tăng 14,84% của cùng kỳ năm 2018. Trong đó, chỉ số ngành sản xuất và phân phối điện đạt tốc độ tăng trưởng 34,39%, đây là mức tăng trưởng khá cao, nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng tăng mới từ nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 1, Vĩnh Tân 4 và một số dự án điện mặt trời đi vào hoạt động; ngành khai khoáng tăng 0,92%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 2,60%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,19% so cùng kỳ năm trước. Tính đến ngày 25/6/2019, toàn tỉnh có 26 dự án có quyết định chủ trương đầu tư với tổng công suất 1.071,88 MW (tương đương 1.346,7MWp), có 17 dự án đi vào hoạt động và phát điện thương mại.
Nhìn chung, hoạt động sản xuất công nghiệp trong 6 tháng tiếp tục ổn định, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 22,07% so cùng kỳ năm trước, trong đó nổi bật là ngành sản xuất và phân phối điện đạt tốc độ tăng trưởng 34,39%; chỉ số sản xuất ngành cung cấp nước, quản lý - xử lý rác thải, nước thải và ngành công nghiệp chế biến chế tạo đều tăng so cùng kỳ, một số sản phẩm như: Quần áo may sẵn, nước khoáng, giày dép, thuỷ sản đông lạnh... tăng khá; riêng ngành ngành khai khoáng chỉ đạt mức tăng 0,92% do diện tích sản xuất muối giảm (chuyển mục đích sang sản xuất điện mặt trời, xây dựng khu dân cư).
2. Đầu tư phát triển:
Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện trong 6 tháng (theo giá hiện hành) ước đạt 11.513,9 tỷ đồng, tăng 17,67% so cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn khu vực Nhà nước đạt 1.530,6 tỷ đồng, chiếm 13,29% tổng vốn, tăng 2,78% so cùng kỳ năm trước; vốn khu vực ngoài Nhà nước đạt 9.157,3 tỷ đồng, chiếm 79,53%, tăng 18,86%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 826,0 tỷ đồng, chiếm 7,18% tổng vốn, tăng 39,63% so cùng kỳ năm trước.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trong 6 tháng ước đạt 1.117,8 tỷ đồng, tăng 3,48% so cùng kỳ năm trước. Trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện 838,1 tỷ đồng, tăng 7,06% so cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 248,2 tỷ đồng, giảm 5,08% và vốn ngân sách nhà nước cấp xã 31,5 tỷ đồng, giảm 12,22% so cùng kỳ năm trước.
3. Đăng ký kinh doanh:
Trong 6 tháng đầu năm 2019 đã tiếp nhận 561 hồ sơ đăng ký doanh nghiệp, trong đó đăng ký thành lập mới 377 hồ sơ, tăng 25,6% so cùng kỳ; tổng vốn đăng ký mới là 5.473 tỷ đồng, giảm 31,3% so cùng kỳ; giải thể 130 doanh nghiệp, tăng 04 doanh nghiệp so cùng kỳ; Thông báo tạm ngừng 85 doanh nghiệp, tăng 07 doanh nghiệp so cùng kỳ; đăng ký thay đổi 506 hồ sơ, tăng 7,9% so cùng kỳ.
4. Đăng ký đầu tư:
Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Trong 6 tháng đầu năm (tính đến ngày 13/6/2019), trên địa bàn tỉnh có 57 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư (cấp mới 36 và cấp điều chỉnh 21), với tổng diện tích đất 373 ha, tổng vốn đăng ký 7.168,8 tỷ đồng. So cùng kỳ năm 2018, số dự án được cấp mới giảm 32 dự án (36/68 dự án), tổng diện tích đất bằng 12,5% (366/2.922 ha), tổng vốn đăng ký bằng 13,9% (3072/22.171 tỷ đồng). Trong 36 dự án cấp mới (với diện tích 366 ha), tổng vốn đầu tư 3.072 tỷ đồng, gồm 05 dự án nông lâm - thủy sản với tổng vốn 502 tỷ đồng; 23 dự án công nghiệp - xây dựng với tổng vốn 2.166,2 tỷ đồng; 07 dự án thương mại - dịch vụ với tổng vốn 354,6 tỷ đồng; 01 dự án du lịch với tổng vốn 50 tỷ đồng.
Trong 6 tháng đầu năm có 17 dự án khởi công (tăng 10 dự án so cùng kỳ), 21 dự án đi vào hoạt động (tăng 19 dự án so với cùng kỳ), thu hồi 02 dự án.
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 6 ước đạt 4.552,9 tỷ đồng, tăng 0,71% so tháng trước và tăng 11,77% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng ước đạt 27.788 tỷ đồng, tăng 12,42% so cùng kỳ năm trước, trong đó tổng mức bán lẻ hàng hoá đạt 18.469 tỷ đồng, tăng 12,10%; doanh thu đạt 9.319 tỷ đồng, tăng 13,04%.
Giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2019 tiếp tục được bình ổn, không có mặt hàng nào tăng giá đột biến. Sau 6 tháng (so với tháng 12/2018) chỉ số giá tiêu dùng tăng 0,67%, trong đó nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,3%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,79%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,47%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 2,91%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,45%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,07%; giao thông tăng 4,3%; bưu chính viễn thông giảm 0,09%, văn hoá giải trí và du lịch giảm 0,48%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 1,0%. So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng giảm 0,45%; So với cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 1,68%; Bình quân 6 tháng đầu năm tăng 2,17% (bình quân 6 tháng đầu năm 2019 so với bình quân 6 tháng đầu năm 2018).
2. Du lịch:
Hoạt động du lịch và dịch vụ phục vụ khách du lịch tiếp tục phát triển, đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của du khách. Hầu hết các doanh nghiệp, cơ sở đều có sự đầu tư về cơ sở vật chất, nhân lực nên chất lượng phục vụ khách được đảm bảo, tính chuyên nghiệp ngày càng rõ nét.
Ước 6 tháng đầu năm, số lượt khách đến 2.933 ngàn lượt khách, đạt 45,8% kế hoạch năm, tăng 11,94% so cùng kỳ năm trước (trong đó, khách quốc tế đạt 376,1 ngàn lượt khách, tăng 12,37% so cùng kỳ năm trước); số lượt khách lưu trú đạt 2.887,7 ngàn lượt khách, tăng 11,91% so cùng kỳ năm trước; số ngày khách lưu trú đạt 4.792,7 ngàn ngày khách, tăng 13,12% so cùng kỳ năm trước (trong đó khách quốc tế đạt 1.140,2 ngàn lượt khách tăng 13,09% so cùng kỳ năm trước). Tỷ trọng khách quốc tế trong 6 tháng đứng đầu là khách Trung Quốc chiếm 29,14%, khách Nga chiếm 22,56%, khách Hàn Quốc chiếm 12,81%, khách Đức chiếm 4,93%, khách Thái Lan chiếm 4,34%, khách Pháp chiếm 2,52%, khách Anh chiếm 2,44%. Doanh thu từ hoạt động du lịch ước đạt 7.451 tỷ đồng, tăng 18,9% so cùng kỳ năm trước.
3. Xuất, nhập khẩu:
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá 6 tháng đầu năm ước đạt 215,3 triệu USD, tăng 6,47% so cùng kỳ năm trước, trong đó nhóm hàng thuỷ sản đạt 62 triệu USD, giảm 7,66%; hàng nông sản đạt 5,3 triệu USD, giảm 14,37%; hàng hoá khác 148 triệu USD, tăng 14,83% (trong đó hàng may mặc 90,5 triệu USD, tăng 13,96%; giày dép 31,5 triệu USD, tăng 11,81%). Với lượng mặt hàng cao su 775 tấn, tăng 40,83% so cùng kỳ; quả thanh long 4.132 tấn, tăng 34,57%; hải sản các loại 6.980 tấn, giảm 13,05%.
- Xuất khẩu dịch vụ du lịch 6 tháng đầu năm ước đạt 137,2 triệu USD, tăng 16,59% so cùng kỳ năm trước.
- Nhập khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 550 triệu USD, tăng 76,77% so cùng kỳ. Tăng chủ yếu do nhập khẩu máy móc thiết bị ngành điện.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 6 tháng đầu năm đạt mức tăng trưởng khá. Nhóm hàng hóa khác tăng khá so cùng kỳ (chủ yếu mặt hàng may mặc và giày dép); Nhóm hàng thủy sản và nông sản giảm hơn so cùng kỳ.
4. Giao thông vận tải:
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 6 đã vận chuyển 2.128,55 nghìn hành khách và luân chuyển 107,02 triệu hk.km. Luỹ kế 6 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 13.154,46 nghìn hành khách, tăng 9,1% so cùng kỳ và luân chuyển 658,96 triệu hk.km, tăng 9,57% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 6 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 2.110,55 nghìn hành khách, luỹ kế 6 tháng đạt 13.049,06 nghìn hành khách, tăng 9,07% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hành khách đường thủy đạt 18,0 nghìn hành khách, luỹ kế 6 tháng đạt 105,4 nghìn hành khách, tăng 13,27% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường bộ đạt 105,02 triệu hk.km, luỹ kế 6 tháng đạt 647,14 triệu hk.km, tăng 9,50% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 2,0 triệu hk.km, luỹ kế 6 tháng đạt 11,82 triệu hk.km, tăng 13,54% so cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 6 vận chuyển hàng hoá đạt 852,01 nghìn tấn và luân chuyển hàng hóa đạt 47,34 triệu tấn.km. Luỹ kế 6 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 5.051,4 nghìn tấn hàng hoá, tăng 11,75% so cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 280,06 triệu tấn.km, tăng 11,44% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 6 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 851,21 nghìn tấn, luỹ kế 6 tháng đạt 5.046,72 nghìn tấn, tăng 11,75% so cùng kỳ năm trước; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,80 nghìn tấn, luỹ kế 6 tháng đạt 4,68 nghìn tấn, tăng 9,52% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 47,25 triệu tấn.km, luỹ kế 6 tháng đạt 279,52 triệu tấn.km, tăng 11,45% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,09 triệu tấn.km, luỹ kế 6 tháng đạt 0,54 triệu tấn.km, tăng 9,65% so cùng kỳ năm trước.
- Cảng tổng hợp Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp tháng 6 ước đạt 13.000 tấn, lũy kế 6 tháng đạt 91.038 tấn. Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng là quặng lmeninte, cát xây dựng, tro bay. Doanh thu tháng 6 ước 670 triệu đồng, lũy kế 6 tháng đạt 3.364,34 triệu đồng.
- Ước doanh thu hoạt động vận tải toàn ngành trong tháng 6 đạt 197,58 tỷ đồng; luỹ kế 6 tháng ước đạt 1.186,79 tỷ đồng, tăng 11,89% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, trong 6 tháng đầu năm công tác bảo đảm giao thông, lưu thông đi lại được thực hiện tốt. Vận tải đường bộ, đường biển ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân.
IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu ngân sách:
Ước thu ngân sách tháng 6 đạt 770,1 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đạt 6.456,1 tỷ đồng, đạt 68,83% dự toán năm, tăng 21,61% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 4.279,2 tỷ đồng, đạt 68,14% dự toán năm, tăng 18,08% so cùng kỳ. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 3.631,0 tỷ đồng, đạt 67,05% dự toán năm, tăng 32,45%; thu tiền nhà, đất 648,2 tỷ đồng, đạt 74,98% dự toán năm, giảm 26,57% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 499,6 tỷ đồng, đạt 71,37% dự toán năm, giảm 32,76%); thu dầu thô 876,9 tỷ đồng, đạt 54,81% dự toán năm, giảm 4,84% và thu thuế xuất nhập khẩu 1.300,0 tỷ đồng, đạt 86,67% dự toán năm, tăng 70,29% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu qua 6 tháng tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 721,4 tỷ đồng (tăng 28,86%); thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 474,4 tỷ đồng (tăng 41,32%); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh 705,1 tỷ đồng (tăng 33,05%); thuế thu nhập cá nhân 323,6 tỷ đồng (tăng 25,46%); thuế bảo vệ môi trường 286,2 tỷ đồng (tăng 37,70%); lệ phí trước bạ 188,5 tỷ đồng (tăng 54,71%); thu từ các loại phí, lệ phí 73,7 tỷ đồng (tăng 8,65%); thu xổ số kiến thiết 580,0 tỷ đồng (tăng 19,37%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 55,1 tỷ đồng (giảm 5,14%); thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 139,9 tỷ đồng (tăng 6,38%); thu tiền sử dụng đất 499,6 tỷ đồng (giảm 32,76%); thu từ dầu thô 876,9 tỷ đồng (giảm 4,84%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.300,0 tỷ đồng (tăng 70,29%).
Ở khối huyện, thị xã, thành phố; ước thu ngân sách tháng 6 đạt 200,0 tỷ đồng. Lũy kế 6 tháng đạt 1.794,3 tỷ đồng, đạt 78,35% dự toán năm, tăng 27,88% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Phan Thiết thu 928,1 tỷ đồng (tăng 49,62% so cùng kỳ năm trước); La Gi: 125,3 tỷ đồng (tăng 32,12%); Tuy Phong: 133,9 tỷ đồng (tăng 4,90%); Bắc Bình: 90,7 tỷ đồng (tăng 37,75%); Hàm Thuận Bắc: 228,8 tỷ đồng (tăng 6,93%); Hàm Thuận Nam: 98,5 tỷ đồng (tăng 6,97%); Tánh Linh: 46,0 tỷ đồng (giảm 21,43%); Đức Linh: 56,7 tỷ đồng (giảm 9,61%); Hàm Tân: 73,2 tỷ đồng (tăng 60,35%) và Phú Quý thu 13,6 tỷ đồng (giảm 38,20%).
So dự toán có 5/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách đạt trên mức bình quân chung khối huyện (78,35%) là Phan Thiết, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, La Gi và Hàm Tân. So cùng kỳ có 7/10 huyện, thị xã, thành phố thu ngân sách tăng so cùng kỳ: Phan Thiết, La Gi, Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam và Hàm Tân.
Nhìn chung, thu ngân sách 6 tháng đạt khá, trong đó nguồn thu từ thuế, phí (chiếm 84,85% trong thu nội địa) tăng khá (tăng 32,45% so cùng kỳ năm trước). Có 7 loại thu có tỷ trọng khá lớn đạt trên mức bình quân chung (68,1%) so với dự toán là: Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đạt 86,26% dự toán); lệ phí trước bạ (đạt 69,81% dự toán); thu khác ngân sách (đạt 108,07% dự toán); xổ số kiến thiết (đạt 69,88% dự toán); tiền cấp quyền khai thác khoáng sản (đạt 68,88% dự toán); thu tiền thuê mặt đất mặt nước (đạt 93,29% dự toán); thu tiền sử dụng đất (đạt 71,37% dự toán); thuế xuất nhập khẩu (đạt 86,67% dự toán) nên đã tác động tích cực đến kết quả thu ngân sách.
Một số khoản thu có tỷ trọng lớn (trong thu nội địa) chỉ đạt dưới mức bình quân chung (68,1%): Thu từ doanh nghiệp nhà nước (đạt 63,84% dự toán); thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (đạt 64,10% dự toán); thuế thu nhập cá nhân (đạt 63,95% dự toán); thuế bảo vệ môi trường (đạt 48,92% dự toán); các loại phí-lệ phí (đạt 49,10% dự toán)… Trong thời gian qua, Bình Thuận đã và tiếp tục triển khai thực hiện các chính sách nhằm kích thích đầu tư và tiêu dùng, vì vậy đã tác động đến việc giảm thu ngân sách khi thực hiện miễn, giảm, gia hạn nộp thuế, phí, lệ phí... cho một số đối tượng doanh nghiệp, cá nhân. Nguồn thu tiền thuê đất và tiền sử dụng đất giảm khá nhiều do thời gian qua doanh nghiệp chuyển từ thuê hàng năm sang nộp tiền thuê đất một lần, trong khi đó quỹ đất có giới hạn nên đã sụt giảm dần nguồn thu, vì vậy đã ít nhiều ảnh hưởng đến thu ngân sách trên địa bàn tỉnh.
2. Chi ngân sách:
Ước chi ngân sách địa phương trong 6 tháng là 4.610 tỷ đồng, đạt 48,39 dự toán năm; trong đó chi đầu tư phát triển 1.044 tỷ đồng (đạt 50,33% dự toán năm), chi thường xuyên 2.989 tỷ đồng (đạt 49,34% dự toán năm).
3. Hoạt động tín dụng:
- Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định; Các Tổ chức tín dụng tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh huy động vốn, mở rộng tín dụng an toàn và có hiệu quả, tập trung vào các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch, doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu; tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp hỗ trợ cho khách hàng khi gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh; thực hiện công tác thông tin tuyên truyền cơ chế, chính sách đến doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh công tác thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển mạng lưới ATM và POS…
- Tình hình thực hiện lãi suất: Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so với đầu năm. Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,5-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,5-6,5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6,6-7,3%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 6,5-7,5%/năm, các lĩnh vực khác từ 9-10%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10-11,5%/năm.
- Hoạt động huy động vốn: Được tiếp tục đẩy mạnh để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến ngày 31/5/2019, nguồn vốn huy động đạt 38.726 tỷ đồng, tăng 14,04% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 6,1%). Ước đến 30/6/2019: Vốn huy động đạt 38.883 tỷ đồng, tăng 14,5% so với đầu năm.
- Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Đến 31/5/2019, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 51.737 tỷ đồng, tăng 11,51% so với đầu năm (cùng kỳ năm trước tăng 7,44%). Ước đến 30/6/2019, dư nợ đạt 52.753 tỷ đồng, tăng 13,7% so với đầu năm.
- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương; trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 28.753 tỷ đồng, chiếm 55,6% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 745 tỷ đồng, chiếm 1,44% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 11.802 tỷ đồng, chiếm 22,8% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.569 tỷ đồng.
- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 987,6 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 301,2 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 673,6 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 12,8 tỷ đồng). Nợ xấu là 16,88 tỷ đồng/05 tàu, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 25,4 tỷ đồng/31 tàu.
- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 398 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, trồng 420 ha thanh long ruột tím hồng theo tiêu chuẩn GlobalGap.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 12,99 tỷ đồng/29 hộ (được trung ương phân bổ 15 tỷ đồng).
- Chất lượng tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục triển khai các giải pháp xử lý nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng. Đến 31/5/2019, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn là 378 tỷ đồng, chiếm 0,73% tổng dư nợ, tỷ lệ nợ xấu giảm 0,08% so với đầu năm.
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/5/2019, trên địa bàn có 172 máy ATM, tăng 01 máy so với đầu năm và 1.560 máy POS, tăng 60 máy so với đầu năm, hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng đã thực hiện tốt các quy định về lãi suất huy động ngoại tệ, quy định cho vay bằng ngoại tệ, các quy định về mua bán ngoại tệ; đồng thời thường xuyên theo dõi hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 5 tháng đạt 345 triệu USD, trong đó doanh số chi trả kiều hối đạt 24,7 triệu USD.
V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hóa:
Công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời, đa dạng. Các cơ quan báo chí hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích, nội dung tuyên truyền phản ánh đầy đủ, đa dạng mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội đặc biệt là tập trung vào các sự kiện nổi bật của tỉnh và đất nước. Hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn ra sôi nổi, thiết thực phục vụ các ngày lễ, tết, nhất là phục vụ tết Nguyên đán 2019, tổ chức lễ hội giỗ tổ các Vua Hùng tại đền thờ Hùng Vương thị trấn Phan Rí Cửa, huyện Tuy Phong; nhiều hoạt động tiếp tục hướng về cơ sở phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng bãi ngang đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân.
Văn hóa, văn nghệ quần chúng: Tổ chức các hoạt động phong phú, đa dạng mừng Đảng, mừng Xuân như: Hội Hoa Xuân Kỷ Hợi 2019, triển lãm ảnh nghệ thuật; các chương trình ca múa nhạc tổng hợp chủ đề về Xuân; Chung kết xếp hạng Liên hoan “Tình khúc bolero lần thứ II/2019”; Liên hoan “Hiphop – Bước nhảy Xanh”; chương trình ca múa nhạc “Những câu chuyện tình”…
Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp: Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh biểu diễn 63/90 buổi phục vụ chính trị (đạt 54,5% kế hoạch), doanh thu đạt 1,2/2,5 tỷ (đạt 48% kế hoạch). Thực hiện Chương trình nghệ thuật “Lễ hội giao thừa Kỷ Hợi 2019”; chương trình “Mùa Xuân và Tuổi trẻ”, “Ký ức tháng Tư” và chương trình nghệ thuật kỷ niệm 129 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hoạt động Thư viện: Trong tháng đã cấp mới 142 thẻ bạn đọc (65 thẻ thiếu nhi), phục vụ 3.774 lượt bạn đọc (thiếu nhi 950 lượt), luân chuyển 19.889 lượt tài liệu (thiếu nhi 12.420 lượt); luỹ kế 6 tháng cấp mới 312 thẻ bạn đọc (thiếu nhi 67 thẻ), phục vụ 13.832 lượt bạn đọc (thiếu nhi 2.604 lượt), luân chuyển 81.952 lượt tài liệu (thiếu nhi 34.907 lượt). Bổ sung 676 bản sách; luân chuyển 3.226 bản sách phục vụ cơ sở.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá đã đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trãi nghiệm quý báu về con người và văn hoá Bình Thuận. Trong tháng đã đón 31.101 lượt khách, trong đó 2.280 lượt khách nước ngoài; luỹ kế 6 tháng, tổng lượt khách tham quan các bảo tàng, Ban Quản lý di tích Tháp Pô Sah Inư Trung tâm Trưng bày Văn hoá Chăm đạt 400.110 lượt khách.
2. Thể dục thể thao:
Hoạt động thể thao quần chúng: Đã tổ chức Lễ phát động toàn dân tập luyện môn bơi phòng, chống đuối nước năm 2019; tổ chức các giải thể thao phục vụ các sự kiện chính trị, các ngày lễ, tết, nhất là các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân 2019,... Phong trào thể thao quần chúng được duy trì và phát triển, thu hút nhiều người tham gia tập luyện, tổ chức tốt các giải thể thao truyền thống
Hoạt động thể thao thành tích cao: Tham gia các giải thể thao, các đoàn thể thao tỉnh 6 tháng đầu năm 2019 đã đạt được 35/95 huy chương, trong đó 14/26 huy chương vàng, 8/30 huy chương bạc, 13/39 huy chương đồng.
3. Giáo dục và Đào tạo:
- Nâng cao chất lượng giáo dục
+ Tiểu học về xếp loại học tập: Môn Toán: 45,41% học sinh được đánh giá “Hoàn thành tốt” giảm 1,02% so cùng kỳ năm trước; 53,65% học sinh được đánh giá “Hoàn thành” tăng 0,95% so cùng kỳ năm trước; 0,95% học sinh được đánh giá “Chưa hoàn thành” giảm 0,07% so cùng kỳ. Môn tiếng Việt: 38,96% học sinh được đánh giá “Hoàn thành tốt” giảm 0,96% so cùng kỳ; 59,8% học sinh được đánh giá “Hoàn thành” tăng 0,84% so cùng kỳ; 1,24% học sinh được đánh giá “Chưa hoàn thành” giảm 0,12% so cùng kỳ.
+ Trung học cơ sở về xếp loại học lực: 23,44% học sinh xếp loại học lực loại Giỏi, giảm 0,79% so cùng kỳ; 33,33% học sinh xếp loại học lực loại khá, giảm 0,38% so cùng kỳ; 39,71% học sinh xếp loại học lực loại trung bình, tăng 4,12% so cùng kỳ; 2,45% học sinh xếp loại học lực loại yếu, giảm 3,26% so cùng kỳ; 1,07% học sinh xếp loại học lực kém, tăng 0,31% so cùng kỳ.
+ Trung học phổ thông về xếp loại học lực: 12,16% học sinh xếp loại học lực loại giỏi, tăng 0,67% so cùng kỳ; 47,38% học sinh xếp loại học lực loại khá, tăng 1,79% so cùng kỳ; 36,74% học sinh xếp loại học lực loại trung bình, giảm 1,3% so cùng kỳ; 3,23% học sinh xếp loại học lực loại yếu, giảm 1,42% so cùng kỳ; 0,49% học sinh xếp loại học lực kém, tăng 0,27% so cùng kỳ.
- Kết quả các kỳ thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia:
+ Kết quả Kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh năm học 2018-2019: Có 303 học sinh đạt giải, trong đó 21 giải nhất; 34 giải nhì và 248 giải ba. So năm học trước, giảm 23 giải (giải nhất tăng 08; giải nhì giảm 17; giải ba giảm 11).
+ Kết quả Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia có 9 học sinh đạt giải, trong đó: 01 học sinh giải nhì; 02 học sinh giải ba; 06 học sinh đạt giải khuyến khích. So năm học 2017-2018, giảm 01 giải ba, 01 giải khuyến khích.
+ Kỳ thi Olympic 30/4 các trường chuyên và không chuyên phía Nam năm học 2018-2019: Trường THPT chuyên Trần Hưng Đạo có 48 học sinh đạt Huy chương, tăng 06 huy chương so với năm học trước (10 Huy chương Vàng, giảm 08 huy chương; 20 Huy chương Bạc, tăng 06 huy chương; 18 Huy chương Đồng, tăng 08 huy chương); các trường không chuyên THPT Phan Bội Châu, THPT Lý Thường Kiệt, THPT Hùng Vương có 85 học sinh đạt Huy chương và tăng 05 huy chương so với năm học trước (15 Huy chương vàng; 28 Huy chương Bạc tăng 04 huy chương; 42 Huy chương Đồng tăng 01 huy chương).
Phấn đấu trong năm 2019 có thêm 19 trường học đạt chuẩn quốc gia (trong đó Mầm non 08 trường; Tiểu học 07 trường; Trung học cơ sở 04 trường) theo đúng nhiệm vụ, chỉ tiêu của UBND tỉnh giao cho ngành Giáo dục năm 2019.
4. Y tế:
Công tác khám chữa bệnh đáp ứng nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, các đơn vị điều trị đã chủ động công tác cấp cứu, điều trị bệnh nhân. Tổng số lượt bệnh nhân đến khám, chữa bệnh dự ước là 1.450 ngàn lượt người (tăng 1,5% so cùng kỳ năm trước), tổng số bệnh nhân điều trị nội trú là 94.167 lượt người (tăng 1% so cùng kỳ năm trước). Hoạt động giám sát, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm được triển khai đồng bộ, không để dịch bệnh xảy ra. Triển khai có hiệu quả các hoạt động của các dự án thuộc Chương trình mục tiêu y tế - dân số. Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực; từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 02 vụ ngộ độc thực phẩm (46 người mắc, không có tử vong).
Hoạt động giám sát, các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, nhất là các bệnh truyền nhiễm được triển khai đồng bộ, không để dịch bệnh xảy ra. Triển khai có hiệu quả các hoạt động của các dự án thuộc Chương trình mục tiêu y tế - dân số.
Toàn tỉnh hiện có 12 phòng khám đa khoa khu vực và 115/115 trạm y tế xã, phường có bác sỹ công tác, chiếm tỷ lệ 100%. Có 126/127 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế. Số bác sỹ/vạn dân 7,15 người.
5. Lao động - Xã hội:
- Trong tháng (đến ngày 13/6/2019) giải quyết việc làm cho 2.050 lao động, luỹ kế 6 tháng (đến ngày 13/6/2019) đã giải quyết cho 12.610 lao động, đạt 52,54% kế hoạch năm và tăng 3,11% so cùng kỳ, trong đó cho vay vốn giải quyết việc làm 700 lao động, đạt 58,3% so kế hoạch và tăng 89,18% so cùng kỳ năm trước.
Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới và đào tạo nghề cho 1.700 người; luỹ kế 6 tháng 5.679 người, đạt 51,63% kế hoạch và tăng 160,38% so cùng kỳ năm trước.
- Chế độ chính sách ưu đãi và hỗ trợ đời sống đối với người có công với cách mạng thực hiện đầy đủ, kịp thời. Triển khai vận động đóng góp Quỹ Đền ơn đáp nghĩa ước thực hiện 3,9 tỷ đồng, đạt 65% kế hoạch cả năm. Các dự án, chính sách giảm nghèo, bảo trợ xã hội được tập trung triển khai đã tạo điều kiện cho người nghèo, đối tượng có hoàn cảnh khó khăn được thụ hưởng theo đúng quy định. Đã cấp 17.449 thẻ BHYT cho người nghèo và 19.801 thẻ BHYT cho người thuộc hộ cận nghèo để chữa bệnh; giải quyết cho 323 hộ nghèo, 906 hộ cận nghèo và 1.831 hộ mới thoát nghèo vay vốn phát triển sản xuất, nguồn vốn thực hiện 122.979 triệu đồng. Hỗ trợ tiền điện cho 8.587 lượt hộ nghèo và hộ chính sách xã hội với kinh phí thực hiện là 1.185 triệu đồng.
Toàn tỉnh có 2.686 người nghiện ma túy; có 106/127 xã, phường, thị trấn có người sử dụng chất ma túy, chiếm 83,46%. Số người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone là 1.471 người.
6. Hoạt động Bảo hiểm:
- Số người tham gia BHXH bắt buộc ước 6 tháng đầu năm 94.374 người, tăng 5,7% so cùng kỳ; số người tham gia BHTN ước 82.306 người, tăng 3,5% so cùng kỳ; số người tham gia BHYT ước 954.757 người, tăng 3,3% so cùng kỳ; tham gia BHXH tự nguyện ước 1.430 người, tăng 7,01% so cùng kỳ; tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đạt 81,1% dân số.
- Tính đến ngày 31/5/2019, toàn tỉnh thu được 865,567 tỷ đồng, đạt 37,3% kế hoạch, tăng 16,6% so cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 118,334 tỷ đồng, chiếm 5,09% kế hoạch thu và giảm 31,3% so cùng kỳ năm trước.
- Công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch; thực hiện tốt việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, BHTN đảm bảo đầy đủ, kịp thời, an toàn.
7. Tai nạn giao thông:
Trong tháng (từ 16/5/2019 - 15/6/2019), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:
- Số vụ tai nạn giao thông 35 vụ, giảm 5 vụ so tháng trước và so cùng kỳ năm trước tăng 3 vụ. Luỹ kế 6 tháng 196 vụ, so cùng kỳ năm trước giảm 12 vụ.
- Số người bị thương 28 người, giảm 6 người so tháng trước và so cùng kỳ năm trước tăng 8 người. Luỹ kế 6 tháng 140 người, không tăng không giảm so cùng kỳ năm trước.
- Số người chết 13 người, so tháng trước giảm 5 người và giảm 3 người so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 6 tháng 118 người, không tăng và không giảm so cùng kỳ năm trước.
Tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra trên đường bộ, ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông. Tai nạn giao thông đường sắt không có vụ đặt biệt nghiêm trọng xảy ra.
8. Thiên tai, cháy nổ:
Thiên tai: Trong tháng không xảy ra; lũy kế 6 tháng (đến ngày 15/6/2019) có 2 vụ thiên tai do sạt lở ven biển tại huyện Tuy Phong, làm hư hại 30 m bờ kè, uy hiếp 1000 m và hạn hán gây thiếu nước làm mất trắng 4.000 ha lúa tại huyện Tánh Linh.
Cháy nổ: Trong tháng cháy không xảy ra, giảm 4 vụ so cùng kỳ; nổ không xảy ra như cùng kỳ. Lũy kế 6 tháng (tính đến ngày 15/6/2019) xảy ra 23 vụ cháy, giảm 15 vụ so cùng kỳ; gây thiệt hại 804,8 triệu đồng.
ĐÁNH GIÁ CHUNG
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn chung tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh trong 6 tháng đầu năm 2019 chuyển biến tích cực; nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt khá so cùng kỳ năm trước:
- Sản xuất nông nghiệp có nhiều cố gắng trong điều kiện thời tiết không thuận lợi, sản lượng khai thác hải sản, nuôi trồng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước. Công tác phòng chống dịch bệnh cây trồng, vật nuôi được triển khai tích cực, các dịch bệnh được khống chế kịp thời. Công tác quản lý bảo vệ rừng, quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản, xây dựng nông thôn mới được tập trung chỉ đạo. Các chính sách hỗ trợ ngư dân khai thác vùng biển xa, chính sách hỗ trợ phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp tục triển khai thực hiện tốt.
- Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế đạt khá, sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, hầu hết các sản phẩm sản xuất công nghiệp chủ yếu đều tăng so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp sản xuất và phân phối điện tăng trưởng khá cao so cùng kỳ năm trước. Ngành khai khoáng đang có dấu hiệu phục hồi sau thời gian dài gặp khó khăn.
- Thu ngân sách nhà nước kết quả khá so với dự toán và tăng khá so cùng kỳ năm trước, nhất là các khoản thu nội địa. Chi ngân sách bảo đảm cho yêu cầu chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, thực hiện các chính sách an sinh xã hội và các nhiệm vụ trọng tâm, bức xúc. Hoạt động tín dụng trên địa bàn ổn định.
- Tích cực mở rộng hợp tác đối ngoại, xúc tiến đầu tư, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách và vốn đầu tư nước ngoài. Việc đôn đốc, rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và tạo điều kiện thuận lợi nhất để thúc đẩy các dự án, các công trình trọng điểm, bức xúc trên địa bàn được tập trung chỉ đạo. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng khá cao so với cùng kỳ năm trước.
- Chất lượng giáo dục, đào tạo được duy trì. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục – thể thao được đẩy mạnh. Công tác khám chữa bệnh tiếp tục đáp ứng được nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân; thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh, bảo đảm an toàn thực phẩm. Các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cơ bản được bảo đảm; công tác giải quyết việc làm có nhiều cố gắng, kịp thời chăm lo cho các đối tượng chính sách, người nghèo.
* Những khó khăn, tồn tại:
Tuy đạt được một số kết quả nhất định, song tình hình kinh tế - xã hội và quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm vẫn còn khó khăn, yếu kém. Đó là:
- Thời tiết chưa thật sự thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất vụ Hè thu 2019. Giá cả nhiều mặt hàng nông sản thiếu ổn định, kim ngạch xuất khẩu nông sản, thủy sản giảm so cùng kỳ năm trước. Dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra trên địa bàn tỉnh.
- Một số dự án vốn ngân sách nhà nước tiến độ triển khai khởi công mới còn chậm. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng của một số dự án chưa đáp ứng nhu cầu thực tế đặt ra. Số lượng đầu tư các dự án ngoài ngân sách, đầu tư hạ tầng các khu, cụm công nghiệp chưa nhiều.
- Hoạt động tín dụng chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn tiêu dùng cho người dân, dẫn đến tình trạng hoạt động “tín dụng đen” trên địa bàn tỉnh vẫn còn tiếp diễn phức tạp.
- Tỷ lệ học sinh phổ thông bỏ học tăng so cùng kỳ. Công tác tuyển sinh các nghề ở trình độ trung cấp, cao đẳng được tăng cường nhưng kết quả tuyển sinh còn ít; việc triển khai công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn còn chậm, đào tạo nghề chưa gắn kết với nhu cầu lao động của các doanh nghiệp. Hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, thông tin thị trường lao động chưa mạnh.
Từ những kết quả trên cho thấy, tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh 6 tháng đầu năm đạt khá, vượt mục tiêu tăng trưởng theo kịch bản đề ra, tăng 8,46% so cùng kỳ (kịch bản tăng 7,29%). Trong đó nhóm ngành nông lâm thủy sản tăng 3,82%; công nghiệp - xây dựng tăng 14,99% (công nghiệp tăng 15,59%, xây dựng tăng 11,04%); dịch vụ tăng 7,02%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 5,71%./.
CTK Bình Thuận
TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:
Trang:
/