[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 ]

 

 

 

 

II. Khảo sát chi tiêu khách du lịch với những nhu cầu và ý kiến đánh giá của du khách tạo điều kiện hoàn thiện phát triển du lịch Bình Thuận tầm cao hơn.

Cùng với Sa Pa, đồng bằng sông Cửu Long, Phú Quốc và địa đạo Củ Chi, địa danh Mũi Né – Phan Thiết (Bình Thuận) là những điểm đến cùa Việt Nam được Huffingtonpost xếp vào danh sách những điểm đến ở Đông Nam Á. Bên cạnh “top du lịch hấp dẫn ở Đông Nam Á”, thành phố du lịch Phan Thiết còn có một khu nghỉ mát vừa vào top 10 khu nghỉ mát hấp dẫn ở châu Á. Đó là Khách sạn Victoria Phan Thiết. Mới đây, website roughguide.com, một trang báo mạng về du lịch khá lâu đời ở Anh đã công bố danh sách 20 bãi biển hấp dẫn nhất của Việt Nam, bãi biển Đồi Dương (Phan Thiết, Bình Thuận) cũng có tên trong danh sách danh giá này. Sau nhiều năm hình thành và phát triển kể từ hiện tượng nhật thực toàn phần, ngành du lịch của tỉnh đã có bước khởi sắc rất đáng ghi nhận. Lượng khách du lịch đến Bình Thuận không ngừng gia tăng. Vị trí của du lịch Bình Thuận cũng từng bước được khẳng định ở trong nước và quốc tế. Bên cạnh đó, cần phát triển mạnh hệ thống sản phẩm du lịch biển, xây dựng các khu du lịch biển có tầm cỡ khu vực và quốc tế, chất lượng cao, bổ sung các sản phẩm du lịch thể thao biển và sinh thái biển. Cần gắn phát triển các sản phẩm du lịch văn hóa với di sản, lễ hội, tham quan; phát triển du lịch làng nghề và du lịch cộng đồng; kết nối các tour, tuyến, điểm, khu du lịch nhằm phát triển đa dạng các loại hình du lịch, tạo lập chuỗi các thương hiệu du lịch trong vùng...

1. Khảo sát chi tiêu khách du lịch, đặc điểm và ý kiến, nhận xét của du khách đến với Bình Thuận

Hàng năm, cuộc điều tra chi tiêu khách du lịch được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên từ dòng du khách trong nước và quốc tế đã du lịch thăm quan địa bàn tỉnh. Đây là điều kiện để nắm các thông tin về chi tiêu, đặc điểm, nhu cầu và ý kiến nhận xét của du khách về những các điểm du lịch, con người Bình Thuận nhằm góp phần xây dựng chiến lược phát triển du lịch tỉnh nhà, có biện pháp mở rộng quảng bá phù hợp tốt hơn.

a) Khảo sát chi tiêu du khách:

Mục tiêu chung chương trình hành động quốc gia về du lịch giai đoạn 2013-2020, định hướng đến năm 2030. Phấn đấu đến năm 2020 phát triển du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới; Xây dựng được hệ thống sản phẩm du lịch dựa trên lợi thế về tài nguyên theo hướng chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng dịch vụ, phát huy giá trị nổi trội của tài nguyên du lịch của các vùng miền, đảm bảo nguyên tắc phát triển du lịch bền vững. Phát triển được những sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh cao, phù hợp với thị trường mục tiêu của du lịch Bình Thuận, chú trọng thị trường có khả năng chi trả cao, lưu trú dài ngày. Đối với ngành du lịch, đánh giá thông qua “Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA)” là một tiêu chuẩn quốc tế được Ủy ban Thống kê Liên hợp quốc xây dựng. Thể hiện kết quả hoạt động du lịch mang lại từ các ngành công nghiệp, vận tải, khách sạn, nhà hàng, thương nghiệp, bưu chính viễn thông và các ngành dịch vụ khác v.v...

Do vậy điều tra chi tiêu du lịch có ý nghĩa rất quan trọng, cho phép tính toán, suy rộng tổng doanh thu của hoạt động du lịch, giá trị xuất khẩu dịch vụ du lịch, một số chi tiêu trong hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch..., nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ công tác quản lý, hoạch định chiến lược, qui hoạch vùng và chính sách phát triển du lịch các cấp, các ngành, cụ thể như sau:

* Du khách trong nước:

Theo kết quả điều tra cho thấy chi tiêu bình quân của một ngày khách trong nước: năm 2013 đạt 1.164 nghìn đồng tăng 291% so với năm 2008, bình quân hàng năm tăng 13,9%.

Mức chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2013 theo nghề nghiệp của khách ở mức cao tập trung vào công chức, viên chức nhà nước (chi tiêu bình quân 1.142 nghìn đồng), nhà doanh nghiệp (chi tiêu bình quân 1.211 nghìn đồng). Còn ở mức thấp hơn như công nhân, nông dân…

Cơ cấu mức chi tiêu bình quân của một ngày khách chủ yếu tiền thuê phòng và ăn uống (Năm 2013 chiếm tỷ lệ 58,85%). Chi tiêu thuê phòng có xu thế giảm qua các năm (năm 2009 chiếm tỷ lệ 35,09%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 33,02%; năm 2011 chiếm tỷ lệ 32,15%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 31,6% đến năm 2013 chiếm tỷ lệ cao hơn các năm 35,26%). Chi tiêu ăn uống dao động từ 23 đến 32%, từ năm 2010 trở về trước thì có xu thế giảm (năm 2008 chiếm tỷ lệ 17,19; năm 2009 chiếm tỷ lệ 28,91%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 32,1%) và các năm sau lại giảm (năm 2011 chiếm tỷ lệ 30,51%; năm 2012 chiếm tỷ lệ 27,25%; năm 2013 chiếm tỷ lệ 23,59%).

Chi tiêu tiền đi lại, một trong những dạng chi tiêu cần thiết, phải có để có điều kiện tham gia vào vui chơi giải trí tham quan được nhiều nơi hơn thì cơ cấu chi phí có giảm. Đó là sự nỗ lực lớn của tỉnh ta trong những năm qua, với nhiều cố gắng trong đầu tư mở rộng đường sá thuận lợi đến các điểm du lịch, mở ra nhiều phương tiện vận chuyển như xe buýt trên nhiều tuyến du lịch cho khách du lịch chi tiêu mức bình dân, xe Taxi (Mai Linh, du lịch Bình Thuận...) cơ động cho du khách. Nhìn chung đi lại được nhiều, thuận lợi, an toàn nhưng chi tiêu trong cơ cấu tổng chi tăng nhưng không cao (hàng năm chiếm tỷ lệ trên dưới 10%; năm).

Đặc biệt chi tiêu mua hàng hoá, quà lưu niệm cơ cấu tăng hẳn lên trong những năm gần đây (năm 2010 chiếm tỷ lệ 10,6%; năm 2011 còn 11,9%; năm 2012 chiếm tỷ lệ 16,4%; năm 2013 thì có sự giảm xuống còn 13,6% do tình hình kinh tế khó khăn, việc chi tiêu cũng được cắt giảm bớt). Các mặt hàng phục vụ du lịch được cải thiện, đa dạng, phong phú hơn nhờ các trung tâm thương mại tăng cường hàng hóa phù hợp với thị hiếu du khách, các cơ sở SXKD cũng chú ý đầu tư nâng chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Tuy nhiên hàng hóa tỉnh ta phần nào đó vẫn còn đơn điệu, cần có nhiều mặt hàng đặc sản địa phương hấp dẫn du khách.

Cơ cấu chi tiêu nhìn chung chủ yếu tập trung ở tiền thuê phòng, sau đó là giải quyết nhu cầu ẩm thực cho du khách, nhất là món ăn đặc sản biển góp phần tăng chi tiêu ăn uống lên đáng kể. Các loại chi tiêu khác như chi phí thăm quan, dịch vụ văn hóa thể thao... ở mức thấp (khoảng mức 4%), trong tương lai cũng cần tăng cường sản phẩm du lịch phục vụ khác ngoài ăn, uống như các dịch vụ vui chơi giải trí, cần phải nâng cao số lượng, chất lượng hàng hóa, quà lưu niệm, các dịch vụ khác đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của du khách.

 

 

 

Cơ cấu chi tiêu bình quân một ngày khách trong nước theo các loại ngành thể hiện qua bảng số liệu sau:

 

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Tổng số

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

Tiền thuê phòng

38,56

35,09

33,02

32,15

31,69

36,69

Tiền ăn uống

25,74

29,17

32,40

29,17

26,45

24,96

Tiền đi lại

12,16

11,43

13,24

11,65

10,81

13,83

Chi phí tham quan

5,07

6,57

5,61

5,68

3,85

4,47

Chi mua hàng hoá, quà lưu niệm

10,77

11,83

9,81

12,49

16,17

13,84

Chi dịch vụ văn hoá, thể thao

3,02

2,37

1,56

1,86

2,78

1,40

Chi phí y tế

0,47

0,39

0,16

0,56

1,18

0,61

Chi khác

4,21

3,15

4,20

6,43

7,07

4,20

* Du khách quốc tế:

Theo kết quả điều tra cho thấy chi tiêu bình quân của một ngày khách quốc tế năm 2013 2,1 triệu đồng (trên 90 USD) tăng trên 100% so với năm 2008, bình quân hàng năm tăng 11,2%.

Mức chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2013 theo mục đích chuyến đi cũng có những chênh lệch nhất định do nhu cầu kết hợp công việc đối với khách quốc tế cao hơn như khách đi du lịch kết hợp công tác với báo chí (3,7 triệu đồng); kết hợp với nghỉ ngơi, tham quan, giải trí (2,8 triệu đồng)... Ở mức chi tiêu thấp hơn như khách đi với mục đích thuần túy kết hợp với thăm bạn bè, người thân (2 triệu đồng), ... Điều này cho thấy các loại khách kết hợp du lịch nghỉ ngơi, thông tin báo chí thường ở mức rất cao, chúng ta cũng hết sức chú ý để thu hút lượng khách này, tăng điều kiện phục vụ cho loại khách MICE đầy đủ hơn. Thực tế với những thế mạnh sẵn có của tỉnh, ngành du lịch Bình Thuận đã và đang tập trung các khu du lịch, giải trí, dịch vụ cao cấp, đa năng, quy mô lớn và đặc biệt là loại hình du lịch nghỉ dưỡng kết hợp hội nghị (MICE) để đáp ứng nhu cầu của du khách trong nước cũng như quốc tế.

Mức chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2013 phân theo độ tuổi cho thấy: Các nhóm tuổi từ 55 đến 64 chi tiêu khá cao so với các nhóm tuổi khác (nhóm tuổi từ 55 đến 24 tuổi chi tiêu bình quân 3,3 triệu đồng; nhóm tuổi từ 25 đến 34 tuổi chi tiêu bình quân 2,9 triệu đồng). Các nhóm tuổi còn lại thấp hơn như từ 35 đến 44 tuổi bình quân 2,4 triệu đồng; nhóm tuổi từ 45 đến 54 tuổi chi tiêu bình quân 2,7 triệu đồng; nhóm tuổi trên 65 tuổi chi tiêu bình quân 2,2 triệu đồng.

Mức chi tiêu bình quân của một ngày khách quốc tế năm 2013 theo nghề nghiệp cũng khác nhau, mức chi cao như kiến trúc sư (4,02 triệu đồng), các nhà thương gia (3,05 triệu đồng); nhà báo (3,1 triệu đồng); quan chức chính phủ (3,3 triệu đồng)... Chi tiêu ở mức chi tiêu thấp hơn như giáo sư, giảng viên, giáo viên (2,3 triệu đồng); Nghề nghiệp khác (2,4 triệu đồng)...

Mức chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2013 theo nội dung cho thấy chủ yếu thuê phòng và ăn uống, thấp hơn là tiền đi lại và chi mua hàng hóa, quà lưu niệm và các chi tiêu khác

Cơ cấu chi tiêu thuê phòng giữ mức 31 đến 33% có năm tăng lên và cũng có năm giảm xuống (năm 2008 chiếm tỷ lệ 31,14%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 33,25%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 31,6% năm 2011 chiếm tỷ lệ 32,35%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 31,52%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 33,55%). Hiện nay theo thị hiếu của du khách khi đến một nơi nào đó để dừng chân nghỉ dưỡng, du lịch… thì du khách đều hướng đến một không gian thoáng mát, đầy đủ tiện nghi và có dịch vụ internet tại chổ nhằm đáp ứng nhu cầu công việc và trực tuyến về gia đình.

Cơ cấu chi tiêu ăn uống những năm gần đây có tăng nhưng đến năm 2012 và 2013 giảm xuống (năm 2008 chiếm tỷ lệ 29,05%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 28,59%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 31,65%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 31,79, năm 2012 chiếm tỷ lệ 28,07% và năm 2013 chiếm tỷ lệ 21,97%). Ẩm thực cũng là một nét đặc trưng riêng biệt góp phần tạo nên ấn tượng cho du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Bình Thuận nói riêng đối với du khách quốc tế. Đây cũng là một kênh hiệu quả mà ngành du lịch tỉnh ta đã khai thác và phát huy trong việc góp phần làm mới hình ảnh du lịch văn hóa, ẩm thực đất nước. Hiện nay nhu cầu ăn uống của du khách ngày càng đa dạng. Ngay trong từng khách sạn cũng đã nâng cấp khu ăn uống, ẩm thực và hình thực ăn uống tự chọn ngày càng nhiều. Nhiều cơ sở ăn uống có quy mô lớn cũng được hình thành và có đầy đủ những món ăn châu Âu, Mỹ phục vụ cho khách Nga, Đức, Anh... Nhưng du khách vẫn muốn tự mình tìm những món ăn đặc trưng của từng miền, những món ăn nhanh vừa hợp khẩu vị vừa hợp với túi tiền...

Đặc biệt cơ cấu chi tiêu mua sắm hàng hóa, quà lưu niệm tăng đều và nhanh, đến năm 2013 giảm xuống (năm 2008 chiếm tỷ lệ 10,43%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 11,13%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 11,71%; năm 2011 chiếm tỷ lệ 11,36%) và năm 2012 chiếm tỷ lệ 16,73%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 13,34%). Những năm gần đây khu du lịch Hàm Tiến đã mở rộng và phát triển thêm nhiều loại hình với quy mô khác nhau và có tên gọi khu phố Tây (bởi ở đây chủ yếu du khách nước ngoài đi dạo chơi mà mua sắm). Ngoài ra còn phát triển thêm khu chợ đêm năm dọc theo tuyến đường Nguyễn Đình Chiểu, du khách nước ngoài có thể lựa chọn những sản phẩm truyền thống và đặc trưng của địa phương du khách thỏa sức mua sắm, bởi những sản phẩm luôn hợp với túi tiền. Các sản phẩm truyền thống của địa phương được tăng cường tạo môi trường có nét riêng tư, tự do, thân thiện dành cho du khách nước ngoài.

Cơ cấu tiền đi lại mấy năm gần đây có giảm xuống, năm 2013 tăng cao (năm 2008 chiếm tỷ lệ 17,8%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 11,95%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 11,48%; năm 2011 chiếm tỷ lệ 9,68% năm 2012 chiếm tỷ lệ 10,51%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 19,23%), cho thấy phương tiện cộng đồng xuất hiện trên nhiều tuyến đi của Bình Thuận tạo điều kiện tiết kiệm chi tiêu đi lại. Các phương tiện tự hành có bước phát triển, ngay các Khu du lịch Mũi Né-Phan Thiết đã có sở sở cho thuê các loại như xe Jeep, xe máy, xe đạp.. phù hợp từng nhóm du khách nước ngoài có nhu cầu tự điều khiển phương tiện đi lại. Với phương tiện xe đạp sẽ phù hợp với các đối tượng thích vận động rèn luyện sức khõe (có thể đến khám phá các làng chài Mũi Né hay vào các đồi dương, các rặng dừa...) và với phương tiện xe Jeep sẽ có thêm nhiều trải nghiệm mới mẻ và kỳ thú, gây hào hứng sôi động cho kỳ nghỉ du lịch.

Qua chi tiêu cho các loại ngành kinh tế có chuyển biến, cơ cấu chi tiêu thuê phòng năm nay cao hơn năm trước trên 2%, thể hiện các chi tiêu khác nhiều hơn, du khách quan tâm nhiều đến các loại nhu cầu khác như thưởng thức ăn uống, giải trí vui chơi, chi mua hàng hoá, quà lưu niệm. Do vậy ngoài vấn đề nâng cấp các tiện nghi phòng nghỉ ngày càng tốt hơn thì các vấn đề khác như thiết kế các chương trình du lịch mới, xây dựng các tuyến du lịch mới, cải tạo nâng cấp các tuyến du lịch củ, xây dựng khu ăn uống, vui chơi giải trí, tham quan cũng cần có nhiều loại hình phong phú, đa dạng dành cho khách quốc tế và trong nước, phù hợp với từng độ tuổi, giới tính và khu vực của các nước trên thế giới. Việc nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm du lịch phải được đặt lên hàng đầu.

Cơ cấu chi tiêu bình quân một ngày khách quốc tế theo các loại ngành thể hiện qua bảng số liệu sau:

 

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Tổng số

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

100,00

Tiền thuê phòng

31,14

33,25

31,60

32,35

31,52

33,55

Tiền ăn uống

29,05

28,59

31,65

31,79

28,07

21,97

Tiền đi lại

17,80

11,95

11,48

9,68

10,52

19,23

Chi phí tham quan

9,00

6,96

9,21

7,64

4,25

4,61

Chi mua hàng hoá, quà lưu niệm

10,43

11,04

11,71

11,36

16,73

13,34

Chi dịch vụ văn hoá, thể thao

1,45

3,41

1,70

1,83

3,71

3,48

Chi phí y tế

0,46

1,12

0,28

0,56

0,40

0,20

Chi khác

0,67

3,67

2,37

4,79

4,80

3,62

Chi tiêu du khách liên quan đến rất nhiều ngành như khách sạn, nhà hàng và các ngành dịch vụ khác, đồng thời cũng có tác động đến ngành công nghiệp chế biến, xây dựng dịch vụ… phát triển những sản phẩm lợi thế, đặc trưng phục vụ cho du lịch. Hoạt động du lịch của địa phương đã mang lại một khí thế thật là sôi động hơn bao giờ hết, ngành du lịch của tỉnh đã phát triển nhanh và có thể khẳng định rằng ngành du lịch tỉnh Bình Thuận đang vận hành theo xu hướng sớm trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có nhiều triển vọng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế tỉnh nhà. Trong ngành du lịch Bình Thuận, cái tạo ra lực hút dịch vụ du lịch vẫn còn khá yếu kém, chính vì thế mà lâu nay du khách đến Bình Thuận thường chi tiêu chưa cao so với một số tỉnh bạn. Tuy nhiên việc mua sắm có chuyển biến tốt đó cũng là một yếu tố cần phát huy các khu mua sắm qui mô hơn. Thời gian gần đây, ý tưởng về các khu chợ đêm hay tuyến phố đi bộ mua sắm ở Hàm Tiến - Phan Thiết đã được thực hiện (gần như dành cho khách quốc tế). Bên cạnh chợ Phan Thiết và siêu thị Co.opMart, Lotte Mart hình thức mua sắm này hứa hẹn sẽ thu hút du khách chi tiêu nhiều hơn. Tuy nhiên, cần phải tránh việc chèo kéo, “chặt chém” giá cả với du khách. Trong những năm tới sẽ có một siêu thị nữa được xây dựng và nỗ lực đi vào hoạt động trong thời gian gần nhất.

b) Đặc điểm và ý kiến đánh giá của khách du lịch

Kết quả thăm dò ý kiến nhận xét, đánh giá của du khách trong nước và quốc tế cùng với những đáp ứng được yêu cầu của khách được thể hiện như sau:

- Đặc điểm cơ cấu du khách trong nước

Du khách trong nước chủ yếu vẫn nghiêng về giới nam đi nhiều hơn, tuy nhiên những năm trở lại đây cơ cấu khách nữ tăng hẳn lên thể hiện giới phụ nữ được quan tâm rõ nét: năm 2008 du khách nam chiếm 65,75%, nữ chiếm 34,25%; năm 2009 du khách nam chiếm 63,67%, nữ chiếm 34,69%; năm 2010 du khách nam chiếm 65,31%, nữ chiếm 34,69%; năm 2011 du khách nam chiếm 55,57%, nữ chiếm 44,43%, năm 2012 du khách nam chiếm 54,52%, nữ chiếm 45,47% và năm 2013 nam chiếm 51,87, nữ chiếm 48,13%.

Các lứa tuổi đi du lịch thường là từ tuổi từ 25 đến 34 tuổi đây là nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số khách du lịch, có sức khỏe làm việc và có nhiều ham muốn du lịch mới, lạ, nhiều loại hình giải trí: Nhóm tuổi 25-34, thường chiếm tỷ lệ ở mức cao ( Năm 2010 chiếm tỷ lệ cao nhất 48,85% và năm 2012 chiếm tỷ lệ thấp nhất 30,67%); Tiếp đến là nhóm tuổi 35-44 thường chiếm tỷ lệ mức 30% (năm 2008 chiếm tỷ lệ 37,75%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 30,92%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 26,54%; năm 2011 chiếm tỷ lệ 33,5%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 34%, và năm 2013 chiếm tỷ lệ 30,1%); Mức có tỷ lệ thấp hơn là nhóm tuổi từ 45-54 (năm 2008 chiếm tỷ lệ 16,16%; năm 2009 chiếm tỷ lệ 21,75%; năm 2010 chiếm tỷ lệ 9,46%; năm 2011 chiếm tỷ lệ 11,07%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 17,53%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 15,5%). Còn các nhóm tuối còn lại chiếm từ 10% trở xuống, thấp nhất là nhóm tuổi trên 64 tuổi (trong năm 2013 giảm so với năm 2012: các năm trước chỉ có trên dưới 1%. Qua số liệu trên cho thấy các khu du lịch cũng cần bố trí nhiều loại hình giải trí phù hợp cho từng lứa tuổi.

Cơ cấu nghề nghiệp của du khách trong nước đến tỉnh ta trong các năm qua chủ yếu công chức, viên chức Nhà nước: năm 2008 chiếm tỷ lệ 32,75% và tỷ lệ này cũng giảm trong những năm sau (năm 2009 chiếm tỷ lệ 29,5%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 30,31%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 31,57%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 20,27%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 26,6%); sau đó các nhà doanh nghiệp giữ mức khoảng 15-22% (năm 2008 chiếm tỷ lệ 20,83%, năm 2009 chiếm tỷ lệ 22,67%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 19,92%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 20,29%,năm 2012 chiếm tỷ lệ 15,6%, đến năm 2013 chiếm tỷ lệ 15,4%); các đơn vị kinh tế tổ chức cho công nhân đi thăm quan, nghỉ dưỡng có quan tâm qua các năm gần đây (năm 2009 chiếm tỷ lệ 15,42%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 15,54%, năm 2011 lại giảm xuống mức 11,5%; năm 2012 tăng lên chiếm 16,9% và năm 2013 chiếm tỷ lệ 17%). Nhóm hưu trí giảm so với năm 2012 (năm 2008 chiếm tỷ lệ 2,92%, năm 2009 chiếm tỷ lệ 6,75%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 3,69%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 7,71%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 8,67%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 8%); nhóm nông dân ở mức thấp nhất luôn chiếm tỷ lệ khoảng 1 đến 2%.

- Đặc điểm cơ cấu du khách quốc tế

Du khách trong nước chủ yếu vẫn nghiêng về giới nam đi nhiều hơn, tuy nhiên cơ cấu du khách nam chiều hướng giảm và ngược lại du khách nữ xu thế tăng: nữ chiếm 30,72%; năm 2008 du khách nam chiếm 66,33%, nữ chiếm 33,67%; năm 2009 du khách nam chiếm 68,2%, nữ chiếm 31,8%; năm 2010 du khách nam chiếm 62%, nữ chiếm 38%; năm 2011 du khách nam chiếm 58,67%, nữ chiếm 41,3%, năm 2012 du khách nam chiếm 59,04%, nữ chiếm 40,96% và năm 2013 du khách nam chiếm 53%, nữ chiếm 47%.

Đối với khách quốc tế các lứa tuổi đến Bình Thuận chiếm tỷ lệ khá cao như: nhóm tuổi từ 25 đến 34 dao động qua các năm chiếm tỷ lệ từ 32 đến trên 37% xu thế giảm qua các năm (năm 2008 chiếm 37,67%, năm 2009 chiếm 35,8%, năm 2010 chiếm 34,25%, năm 2011 chiếm 33,67% và năm 2012 chiếm chiếm 32,67%, đến năm 2013 chiếm tỷ lệ 26%). Sau đó là lứa tuổi từ 35 đến 44 hiện là nhóm chiếm tỷ lệ cao nhất trong các nhóm tuổi và có chiều hướng tăng mạnh về cơ cấu (năm 2008 chiếm 28,67%, năm 2009 chiếm 31,8%, năm 2010 chiếm 28,75%, năm 2012 chiếm 29,17% và năm 2012 chiếm tỷ lệ 35%, đến năm 2013 giảm xuống còn 31,6%). Lứa tuổi từ 45 đến 54 chiếm tỷ lệ thấp hơn một chút và đang có chiều hướng tăng (năm 2008 chiếm 13,33%, năm 2009 chiếm 20,4%, năm 2010 chiếm 17,25% và năm 2011 chiếm 19,17%, năm 2012 chiếm tỷ lệ 18,3%, đến năm 2013 tăng 22,2%). Còn các nhóm tuổi từ 55 tuổi trở lên cơ cấu thấp hơn nhiều do lớn tuổi sức khỏe không tốt cho đi lại xa xôi, chiếm tỷ lệ từ 10% trở xuống. Về tâm lý của các lứa tuổi thì lứa tuổi trẻ bao giờ cũng hiếu động, thích trò chơi giải trí hết sức sôi động, thích đi dã ngoại và có phần mạo hiểm; các lứa tuổi trung niên thường có những nghiên cứu, quan hệ giao dịch làm ăn. Tùy theo đặc điểm của lứa tuổi, Các cơ sở kinh doanh du lịch đưa những mô hình resort có nhiều dạng thích hợp từng lứa tuổi và tùy theo mỗi nơi, mỗi lúc xem xét khách quốc tế đến từ lứa tuổi nào là chủ yếu mà chọn các loại hình dịch vụ cho phù hợp.

Cơ cấu theo nghề nghiệp của du khách quốc tế phần lớn là nhà thương gia, trong các năm có chiều hướng tăng từ các năm trước nhưng trong năm 2012 giảm (năm 2008 chiếm 30,67%, năm 2009 chiếm 30%, năm 2010 chiếm 31,5%; năm 2011 chiếm 32,5%, năm 2012 chiếm 15,2%, đến năm 2013 chiếm tỷ lệ 21,2% ), đây là loại du khách có điều kiện tiền bạc đi du lịch và kết hợp mở rộng quan hệ thương mại, tìm kiếm thị trường nên cơ cấu cao và có thể tăng nhiều hơn nữa. Tiếp đến là học sinh, sịnh viên lực lượng khá đông ham muốn đi du lịch mọi nơi (năm 2008 chiếm 11%, năm 2009 chiếm 14%, năm 2010 chiếm 11,75%, năm 2011 chiếm 11% và năm 2012 chiếm 10,2%; đến năm 2013 chiếm tỷ lệ 10,2%). Khách du lịch là Giáo sư, giảng viên, giáo viên chiếm tỷ thấp hơn so với các nhóm nghề nghiệp có chiều hướng tăng trở lại (năm 2008 chiếm 13,67%, năm 2009 chiếm 10,8%, năm 2010 chiếm 9,75, năm 2011 chiếm 10,33% và năm 2012 chiếm 7,6%, năm 2013 chiếm tỷ lệ 10%). Các dạng nghề nghiệp khác chiếm cơ cấu rất thấp trong năm 2013 như: nghề nghiệp kiến trúc sư chiếm 4,8%, nhà báo chiếm 5,4%, quan chức chính phủ chiếm 2,4%...). Tùy theo mức độ cơ cấu của nghề nghiệp cũng có những sự lựa chọn trong tiếp cận phục vụ và quảng bá các điểm đến theo thị hiếu và sở thích của họ.

 

- Đặc điểm ở tỉnh có ấn tượng tốt nhất:

Đến với Bình Thuận du khách nước ngoài để lại ấn tượng tốt đẹp, một thủ đô của Resort, một phong cảnh đẹp do có một bờ biển dài, và bãi cát mịn màng thoai thoải kéo dài, nước biển xanh cùng với đồi núi chập chùng được thiên nhiên ban tặng như một bức tranh hữu tình, bầu trời trong xanh quanh năm hầu như là nắng ấm. Có những khu di tích lịch sử đáng ghi nhận và những lễ hội truyền thống đặc sắc sâu đậm nét địa phương. Qua khảo sát các năm thể hiện như sau:

 Ấn tượng tốt nhất như về phong cảnh đẹp: năm 2008 chiếm 66,3% thì năm 2013 nâng lên chiếm 87,2%. Điều này cho thấy các khu vực Hàm Tiến- Mũi Né - Tiến Thành đã có những khu du lịch sinh thái mang đậm màu sắc thiên nhiên êm đềm, bình lặng cùng với những resort, khu nghỉ dưỡng nổi tiếng như: Sea Links, Việt Pháp (Princess D'Annam Resort & Spa) Làng Thụy Sĩ, Bambo Village, Muine De Century Beach Resort & Spa…khu giải trí liên hợp Forest đang không chỉ là điểm đến của nhiều du khách quốc tế mà còn là điểm dừng chân thật sự lý tưởng cho những tour dã ngoại…

Ấn tượng về con người Bình Thuận thì cũng có cơ cấu khá: năm 2008 chiếm 22,8% và năm 2013 chiếm 54,6%, thể hiện con người Bình thuận ngày càng thân thiện hơn và môi trường du lịch an toàn. Tuy nhiên cần phải hết sức chú ý đào tạo con người giao tiếp lịch thiệp, hiếu khách, nhân viên tiếp tân, hướng dẫn du lịch nhiều về số lượng và có trình độ chuyên môn cao. Ấn tượng về hàng hóa rẻ vẫn chưa chuyển biến tốt: năm 2008 chiếm 6,9% và năm 2013 chiếm 8,6%. Chất lượng phục vụ ngày càng hoàn thiện hơn năm 2011 chiếm 12,3% và năm 2013 chiếm 27,6%.

Các mức tỷ lệ này chưa phải là tối ưu, đòi hỏi tỉnh phải có kế hoạch, biện pháp nâng cao sức hấp dẫn, con người, môi trường thân thiện, nhất là mỗi điểm du lịch trong tỉnh có những đặc thù riêng, khác lạ nhằm thu hút du khách nhiều hơn nữa.

Đầu trang | Trang trước | Tiếp theo