PHẦN III
PHẦN III
KẾT QUẢ ĐIỀU TRA CHI TIÊU KHÁCH DU LỊCH
NĂM 2006 - 2008
Hàng năm, cuộc điều tra khảo sát
khách du lịch được tiến hành theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên từ dòng khách
du lịch trong nước và quốc tế đang đi du lịch thăm quan tên địa bàn tỉnh. Đây là
điều kiện để nắm các thông tin về đặc điểm khách du lịch để mở rộng quảng bá phù
hợp, nhu cầu và ý kiến nhận xét của họ về những các điểm du lịch, con người Bình
Thuận, từ đó ta có kế hoạch phục vụ tốt hơn. Kết quả thăm dò ý kiến nhận xét,
đánh giá của khách du lịch trong nước và quốc tế cùng với những đáp ứng được yêu
cầu của khách như thế nào, được thể hiện như sau:
1.
Đặc điểm của
khách du lịch:
a)
Đặc điểm cơ
cấu khách du lịch trong nước
Khách du
lịch trong nước chủ yếu vẫn nghiêng về giới nam đi nhiều hơn, năm 2006 về cơ cấu
khách du lịch nam chiếm 63,63%, nữ chiếm 36,37% và mức này cũng giữ đến hiện nay
chưa thay đổi bao nhiêu, năm 2008 cơ cấu khách du lịch nam chiếm 65,63%, nữ
chiếm 36,37%.
Các lứa tuổi
đi du lịch thường là từ tuổi từ 25 đến 34 và 35 đến 44 tuổi: năm 2006 cơ cấu
khách du lịch tuổi từ 25 đến 34 chiếm 35,38% thì năm 2008 có nhích lên 36%; năm
2006 cơ cấu khách du lịch tuổi từ 35 đến 44 chiếm 36,25% thì năm 2008 có nhích
lên 37,35%. Cho thấy đây là các khoảng độ tuổi có sức khỏe làm việc và có nhiều
ham muốn du lịch mới, lạ, nhiều loại hình giải trí. Các độ tuối khác thì thấp
hơn nhiều như độ tuổi từ 45 đến 54 năm 2006 chiếm 13,5% thì năm 2008 có nhích
lên 16,2%, độ tuổi từ 15 đến 24 năm 2006 chiếm 10,3% thì năm 2008 có giảm còn
5,9%, độ tuổi từ 55 đến 64 năm 2006 chiếm 3,9% thì năm 2008 có giảm nhẹ còn 3,8%
và độ tuổi trên 64 cơ cấu rất thấp năm 2006 chiếm 0,8% thì năm 2008 có giảm còn
0,4%. Trên cơ sở này các khu du lịch cũng cần bố trí nhiều loại hình giải trí
phù hợp cho từng lứa tuổi.
Trong điều
kiện hiện nay, khi xem xét cơ cấu nghề nghiệp của khách du lịch phần lớn là công
chức, viên chức nhà nước lớn nhất cũng dễ hiểu là do có sự can thiệp của các tổ
chức công đoàn tổ chức đi thăm quan. Kế đến là các nhà doanh nghiệp vừa có điều
kiện tiền bạc đi du lịch mà cũng có thể là mở rộng quan hệ xúc tiến thương mại,
tìm kiếm thị trường.
b)
Đặc điểm cơ
cấu khách du lịch quốc tế
Cũng như
khách du lịch trong nước, khách du lịch quốc tế nghiêng về giới nam đi nhiều
hơn, năm 2006 về cơ cấu khách du lịch nam chiếm 59,67%, nữ chiếm 40,33% và năm
2008 cơ cấu khách du lịch nam chiếm 66,33%, nữ chiếm 33,67%.
So với mức
cơ cấu khách du lịch trong nước thì khách quốc tế có cơ cấu các lứa tuối dưới 44
cao hơn như sau: cơ cấu khách du lịch tuổi từ 15 đến 24 năm 2006 chiếm 13%
thì năm 2008 chiếm 11,33%; Khách du lịch tuổi từ 25 đến 34 năm 2006 chiếm 33,55%
thì năm 2008 chiếm 37,67%; Khách du lịch tuổi từ 35 đến 44 năm 2006 chiếm 28,9%
thì năm 2008 chiếm 28,67%; Khách du lịch tuổi từ 45 đến 54 năm 2006 chiếm 15,95%
thì năm 2008 chiếm 13,33%, Khách du lịch tuổi từ 55 đến 64 năm 2006 chiếm 8,31%
thì năm 2008 chiếm 8,33% và Khách du lịch tuổi trên 64 năm 2006 chiếm 0,33% thì
năm 2008 chiếm 0,67%
Đối với
khách quốc tế thì lứa trẻ bao giờ cũng thích trò chơi giải trí hết sức sôi động
và thích đi dã ngoại và có phần mạo hiểm. Mà lứa tuổi này đến Bình Thuận chiếm
tỷ lệ khá lớn, nhất là lứa tuổi từ 25 đến 34. Đó cũng là cơ sở để đưa những mô
hình các khu du lịch có nhiều dạng ưu tiên cho lứa tuổi này trội hơn. Tuy nhiên
tùy theo mỗi nơi, mỗi lúc xem xét khách quốc tế đến từ lứa tuổi nào là chủ yếu
mà chọn các loại hình dịch vụ cho phù hợp.
2.
Nguồn tham
khảo, mục đích, hình thức, độ dài chuyến đi:
a)
Khách du
lịch trong nước
- Nguồn
tham khảo quyết định đi du lịch:
Khách du
lịch tham khảo từ nguồn nào nhiều nhất để quyết định chuyến đi du lịch và đây
cũng là vấn đề cho các điểm đến xem xét lại cần tập trung quảng bá trên nguồn
thông tin nào chi phí phù hợp và có hiệu quả.
Bảng cơ
cấu nguồn tham
khảo để quyết định đi du lịch
|
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
- Bạn bè, người thân |
39,64 |
40,57 |
46,08 |
- Công ty du lịch |
9,91 |
16,45 |
12,42 |
- Sách, báo, tạp chí |
10,04 |
12,34 |
23,17 |
- Ti vi |
31,64 |
8,37 |
14,58 |
- Internet |
7,62 |
15,60 |
23,33 |
- Nguồn khác |
6,48 |
11,63 |
9,58 |
Ở đây ta
thấy bạn bè, người thân bao giờ cũng là yếu tố tham khảo hàng đầu (cho thấy cảnh
vật ở Bình Thuận gây ấn tượng tốt đối với khách du lịch), thứ hai là các công ty
du lịch cũng góp phần quảng bá các địa phương mới lạ, hấp dẫn. Đặc biệt phương
tiện Internet truyền bá của tỉnh ta cũng phát huy rõ nét từ 7,62% năm 2006 vươn
lên 23,33% cho 2008. Tuy nhiên mức độ này vẫn còn khiêm tốn đòi hỏi cần phải mở
rộng thêm kênh thông tin này như cập nhật đều quảng bá du lịch trên WebSite của
tỉnh và các trang quảng bá khác. Ngược lại nguồn Ti vi giảm xuống nghiệm trọng
từ 31,64% năm 2006 xuống còn 14,58% năm 2008 cho thấy đưa tin trên Đài truyền
hình của quốc gia phủ sóng toàn quốc thiếu liều lượng.
- Mục
đích của chuyến Du lịch:
Về cơ cấu
theo mục đích chuyến đi, phần lớn đúng như ý nghĩa của du lịch nhằm đáp ứng nhu
cầu về tinh thần là vấn đề quan trọng nhất: Số khách du lịch với mục đích vui
chơi và giải trí năm 2006 chiếm 73,9% và năm 2008 chiếm
59,6%. Ngoài ra kết hợp du lịch với các mục đích
khác, trước hết là với công tác, hội nghị tập huấn (du
lịch meeting) đang có xu thế tăng từ tỷ lệ 3,8% năm 2006 nâng lên chiếm
17,2% năm 2008. Thăm bạn bè, họ hàng từ tỷ lệ 2,2% năm 2006 nâng lên chiếm 9,2%
năm 2008.
- Hình
thức tổ chức đi Du lịch:
Theo hình
thức tổ chức đi thì xu thế chuyển hướng cho đi theo hình thức tự sắp xếp đi.
Khách đi theo tour năm 2006 chiếm 20,3% và năm 2008 chiếm 18,3%. Còn khách tự
sắp xếp đi năm 2006 chiếm 79,8% và năm 2008 chiếm 81,2%. Nguyên nhân chủ yếu do
lượng khách luồng du lịch từ thành phố Hồ Chí Minh đến tỉnh ta rất lớn mà đoạn
đường không dài chỉ có 200 km, nên tự sắp xếp đi là chủ yếu. Điều này cũng nói
lên nguyên nhân có thể do đi du lịch theo tour ngắn ngày không có tự do về thời
gian và chỉ vui chơi tại những địa điểm do theo kế hoạch, còn khách du lịch tự
sắp xếp thì có nhiều thời gian hơn và tự do đến những nơi tuỳ thích mà không
được định trước và để lựa chọn nơi lưu trú, ăn uống vui chơi thoải mái hơn. Tuy
nhiên trong tương lai, công ty du lịch lữ hành cần mở rộng các nơi thăm quan
trên cơ sở bố trí các tuyến đi hợp lý và chí phí cho phép để nâng tỷ lệ này lên.
- Phương
tiện đi Du lịch:
Về cơ cấu
khách theo phương tiện đi phần lớn là khách đi bằng ô tô, năm 2006 chiếm 78,3%
và năm 2008 chiếm 78,7%. Từ khi có chuyến tàu mang tên Hội tụ xanh đưa vào năm
2005 tuyến Phan Thiết-Thành phố Hồ Chí Minh thì từ đó lượng khách đến bằng tàu
hoả chiếm một tỷ lệ đáng kể. Hiện nay cơ cấu khách đi tàu hỏa có nhích lên so
những năm trước nhưng chưa được nhiều, năm 2006 chiếm 16,6% và năm 2008 chiếm
17,2%.
- Số lần
khách Du lịch đến:
Về cơ cấu số
lần khách du lịch đã đến Bình Thuận thì tỷ lệ đến lần thứ hai và lần thứ ba năm
sau có cao hơn năm trước, thể hiện du lịch Bình Thuận mặc dầu hình thành và phát
triển khá mới mẽ so với một số tỉnh bạn có truyền thống du lịch lâu đời nhưng sự
thu hút khách du lịch không kém, nhiều khách du lịch đã quay trở lại ngày càng
nhiều hơn. Số lần khách đến lần thứ hai: năm 2006 chiếm 30,4% thì năm 2008 nâng
lên chiếm 37%; Số lần khách đến lần thứ ba: năm 2006 chiếm 29,4% thì năm 2008
nâng lên chiếm 33,8%.
Bảng cơ
cấu số lần khách du lịch đến Bình Thuận:
|
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
- Lần 1 |
42,69 |
29,69 |
29,25 |
- Lần 2 |
30,37 |
37,87 |
37,00 |
- Lần thứ 3 trở lên |
26,94 |
32,62 |
33,75 |
- Qui mô
độ dài ngày bình quân của lượt khách:
Về Qui mô
dài ngày của một lượt khách du lịch chiếm không thay đổi gì nhiều, Lượng khách
đi du lịch với thời gian từ 1 đến 3 ngày chiếm phần lớn: năm 2006 chiếm 92,5% và
năm 2008 chiếm 91,3% (Đối với khách đi theo tour, năm 2006 chiếm 97,8% thì năm
2008 chiếm 90,3%. Đối với khách tự sắp xếp đi, năm 2006 chiếm 88,9% thì năm 2008
chiếm 91,5%). Còn đi du lịch với thời gian 4 đến 7 ngày và trên 7 ngày thì chỉ
chiếm dưới 10%.
b)
Khách du
lịch quốc tế
- Nguồn
tham khảo quyết định đi du lịch:
Nguồn tham
khảo nhiều nhất để quyết định chuyến đi chủ yếu là từ bạn bè, người thân chiếm
phần lớn và nguồn này càng được nhân rộng cho các năm sau, chứng tỏ Bình Thuận
có sức lôi cuốn, khách đến có ấn tượng tốt đẹp và tuyên truyền cho nhiều người
khác cùng đến du lịch ở Bình Thuận. Kế đến là nguồn từ các công ty du lịch có ý
nghĩa trong chuyến đi, giúp họ hiểu về địa phương mình đến du lịch. Đồng thời từ
nguồn sách báo, tạp chí cũng được người nước ngoài quan tâm. Đối với nguồn
Internet, do quảng bá từ nguồn này ra nước ngoài của tỉnh chưa có nhiều trang
web bằng tiếng nước ngoài, nội dung chưa phong phú nên ít người nước ngoài biết
đến. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua cơ cấu từ nguồn này cũng đã có chuyển
biến nhanh từ 2,3% năm 2006 vươn lên 15,7% cho 2008 là nhờ các website của các
hãng lữ hành nước ngoài.
Bảng cơ
cấu nguồn tham
khảo để quyết định đi du lịch
|
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
- Bạn bè, người thân |
45,70 |
30,09 |
52,00 |
- Công ty du lịch |
23,18 |
15,05 |
26,67 |
- Sách, báo, tạp chí |
21,52 |
35,42 |
37,67 |
- Ti vi |
14,24 |
16,61 |
25,00 |
- Internet |
2,34 |
2,82 |
15,67 |
- Nguồn khác |
2,30 |
7,84 |
4,33 |
- Những
tác động tới sự lựa chọn điểm đến du lịch
Từ các nguồn
tham khảo quyết định chuyến đi thì điểm du lịch hấp dẫn được đa số chú ý, mặt
khác giá trị đồng tiền ở Việt Nam tương đối dễ chịu có thể thoải mái cho mọi
thành phần trong đó cũng cho cả những người đời sống có khó khăn. Thể hiện qua
cơ cấu sau: Điểm du lịch hấp dẫn năm 2006 chiếm 45,7% thì năm 2008 chiếm 80%;
Giá trị đồng tiền năm 2006 chiếm 19,5% thì năm 2008 chiếm 17%; Thủ tục hải quan
và nhập cảnh đơn giản năm 2006 chiếm 9,9% thì năm 2008 chiếm 12,3% (tuy Bình
Thuận không có cửa khẩu thông quan mà chủ yếu khách thông quan ở thành phố Hồ
Chí Minh, tỷ lệ nói trên cũng cho thấy sự thông thoáng của đất nước trong thời
kỳ mở cửa, hội nhập); Phương tiện đi lại thuận tiện năm 2006 chiếm 7,6% thì năm
2008 chiếm 12,1%
- Mục
đích của chuyến Du lịch:
Về cơ cấu
theo mục đích chuyến đi, phần lớn là vui chơi, giải trí và càng về sau càng thể
hiện rõ: Số khách du lịch với mục đích vui chơi và giải trí năm 2006 chiếm 89,1%
và năm 2008 chiếm 92,7%. Ngoài ra kết hợp du lịch với các mục đích khác, trước
hết là với công tác, hội nghị tập huấn đang có xu thế tăng từ tỷ lệ 1,3% năm
2006 nâng lên chiếm 3% năm 2008. Thăm bạn bè, họ hàng chiếm 1,3% năm 2006 nâng
lên chiếm 1,7% năm 2008. Còn lại kết hợp với các mục đích thông tin báo chí,
thương mại... và các mục đích khác trong năm 2008 chỉ trên 7%.
- Hình
thức tổ chức đi Du lịch:
Theo hình
thức tổ chức đi đối với khách quốc tế càng ngày càng chuyển hướng đi theo tour
nhiều hơn. Khách đi theo tour năm 2006 chiếm 40% thì năm 2008 nâng lên chiếm
48,3%. Khách nước ngoài phần lớn từ Tour đến Việt Nam thông qua du lịch đến
thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, cần khai thác lượng khách quốc tế du lịch đến
Thành phố Hồ Chí Minh,thông qua liên kết vùng trên cơ sở phát huy thuận
lợi là Bình Thuận có bờ biển dài, đẹp và có nhiều Resort mà thành phố HCM không
có. Khoảng đường cách Thành phố HCM không xa lắm thuận cho việc đi lại.
- Phương
tiện đi Du lịch:
Khách quốc
tế đến Việt Nam chủ yếu bằng máy bay, tuy nhiên đối với tỉnh ta chưa có sân bay,
do vậy đến tỉnh Bình Thuận thường phải thông qua một tỉnh khác. Ở đây chủ yếu từ
thành phố Hồ Chí Minh, do vậy đến tỉnh phần lớn phương tiện đi là khách đi bằng
ô tô, năm 2006 chiếm 88,3% và năm 2008 chiếm 84,3%. Lượng khách đi bằng tàu hỏa
có chuyển biến khá nhờ sự nỗ lực của tỉnh tăng cường phương tiện vận tải phục vụ
du lịch, đã đầu tư đưa con tàu Hội tụ xanh hoạt động (phương tiện mới nhưng thể
hiện tính ưu việt trong du lịch như an toàn, đáp ứng cho mọi lứa tuổi, thoải mái
nghỉ ngơi trong khi vận chuyển) nên có mức tăng cơ cấu đáng kể: năm 2006 chỉ
chiếm 9% thì năm 2008 đã nâng lên chiếm 14,3%.
- Số lần
khách Du lịch đến:
Về cơ cấu số
lần khách quốc tế du lịch đến Bình Thuận có chuyển biến, khách quen thuộc trở
lại Bình Thuận có nhiều hơn: Số lần khách đến lần thứ hai: năm 2006 chiếm
30,8% thì năm 2008 nâng lên chiếm 37%; Số lần khách đến lần thứ ba: năm 2006
chiếm 8,6% thì năm 2008 nâng lên chiếm 17%. Điều này chứng tỏ môi trường du lịch
Việt Nam, trong đó có Bình Thuận đã từng bước hoàn thiện càng ngày càng hấp dẫn
khách quốc tế hơn, khiến họ có xu hướng quay lại du lịch Bình Thuận nhiều hơn.
Chứng tỏ Bình Thuận đã có nhiều hứa hẹn với những vẻ đẹp tự nhiên và tiềm ẩn
đang còn nhiều điều hấp dẫn khách du lịch quốc tế.
Bảng cơ
cấu số lần khách quốc tế du lịch đến Bình Thuận:
|
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
- Lần 1 |
60,60 |
47,96 |
46,00 |
- Lần 2 |
30,79 |
36,05 |
37,00 |
- Lần thứ 3 trở lên |
8,61 |
15,99 |
17,00 |
- Đặc
điểm nào ở tỉnh có ấn tượng tốt nhất:
Đến với Bình
Thuận du khách nước ngoài để lại ấn tượng tốt đẹp, một thủ đô của Resort, một
phong cảnh đẹp do có một bờ biển dài, và bãi cát mịn màng thoai thoải kéo dài,
nước biển xanh cùng với đồi núi chập chùng được thiên nhiên ban tặng như một bức
tranh hữu tình, bầu trời trong xanh quanh năm hầu như là nắng ấm. Từ đó thể hiện
qua ấn tượng tốt nhất như về phong cảnh đẹp: năm 2006 chiếm 50,5% thì năm 2008
nâng lên chiếm 66,3%. Tuy nhiên mức tỷ lệ này chưa phải là tối ưu, đòi hỏi tỉnh
phải có kế hoạch, biện pháp nâng cao sức hấp dẫn, nhất là mỗi điểm du lịch trong
tỉnh có những đặc thù riêng, khác lạ nhằm thu hút khách du lịch nhiều hơn nữa.
Ấn tượng về
con người Bình Thuận thì cũng có cơ cấu khá: năm 2006 chiếm 26,8% và năm 2008
chiếm 22,9%. Mức cơ cấu có giảm tuy không nhiều nhưng ta cũng cần phải hết sức
chú ý đào tạo con người giao tiếp lịch thiệp, hiếu khách, nhân viên tiếp tân,
hướng dẫn du lịch nhiều về số lượng và có trình độ chuyên môn cao.
Ấn tượng về
hàng hóa rẽ chiếm tỷ lệ khiêm tốn và cũng chưa có gì thay đổi trong những năm
qua: năm 2006 chiếm 8,5% và năm 2008 chiếm 7%. Tỷ lệ này không cao, chứng tỏ
hàng hóa Bình Thuận chưa thực sự phong phú và rẽ so với một số thị trường khác.
- Qui mô
độ dài ngày bình quân của lượt khách:
Qui mô độ
dài ngày của một lượt khách du lịch quốc tế : Lượng khách đi du lịch với thời
gian từ 1 đến 3 ngày là phổ biến nhất: năm 2006 chiếm 50,8% và năm 2008 chiếm
47,3% (Đối với khách đi theo tour, năm 2006 chiếm 50,4% thì năm 2008 chiếm
49,7%. Đối với khách tự sắp xếp đi, năm 2006 chiếm 51% thì năm 2008 chiếm
45,2%). Đi du lịch với thời gian 4 đến 7: năm 2006 chiếm 39,4% và năm 2008 chiếm
32,3%. Còn trên 7 ngày: : năm 2006 chiếm 6,3% thì năm 2008 chiếm 17,4%.
3.
Thực trạng
chi tiêu của khách du lịch:
Chi tiêu du
lịch có ý nghĩa hết sức to lớn, cho phép tính toán, đánh giá kết quả hoạt động
riêng của ngành du lịch, đồng thời góp phần đưa ra được một bức tranh khá phong
phú thể hiện mối quan hệ các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ảnh hoạt động kinh
tế của nhiều ngành, cụ thể như sau:
a)
Khách du
lịch trong nước:
Theo kết quả
điều tra cho thấy chi tiêu bình quân của một ngày khách trong nước:
năm 2008 tăng
47,5%
so với năm 2006,
bình quân hàng năm tăng
21,5%.
Mức bình quân qua các năm theo hình thức đi thường không chênh lệch bao nhiêu,
tuy nhiên đối với khách
đi theo
tour tuy mới chiếm 18,8% nhưng thể hiện
xu hướng mức bình quân cao hơn: mức bình quân theo tour hàng năm tăng
23,1%
thì mức tăng tự sắp xếp bình quân hàng năm tăng
21,9%.
Mức
chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2008 theo mục đích chuyến đi
ở mức cao
chủ yếu khách
đi du lịch kết hợp với Thương mại ( 1.417,8
nghìn đồng)
và khách
đi du lịch kết hợp với Thông tin báo chí
(1.527,8
nghìn đồng)
còn mục đích du lịch nghỉ ngơi thì ở mức bình thường (654,2
nghìn đồng)
. Mức
chi tiêu bình quân của một ngày khách năm 2008 theo nghề nghiệp của khách
ở mức
cao rơi vào
các nhà doanh nghiệp (chi tiêu bình quân
1.174,2
nghìn đồng),
còn ở
mức thấp như học sinh, sinh viên
(chi
tiêu bình quân 294,9
nghìn đồng).
Mức chi tiêu
bình quân của một ngày khách năm 2008 theo
cơ cấu các loại ngành kinh tế chủ yếu thuê phòng và ăn uống, thấp hơn một chút
là tiền đi lại và chi mua hàng hóa, quà lưu niệm. Cơ cấu tiền thuê phòng tăng
lên cho thấy hiện nay phần lớn khách du lịch vẫn giải quyết nguồn tiền chi du
lịch tập trung cho ở, mặt khác các tiện nghi phòng nghỉ được trang bị ngày càng
tốt hơn nên mức chi tiêu phải cao hơn. Cơ cấu tiền đi lại là một trong những chi
tiêu không thể thiếu trong nguồn chi tiêu của khách du lịch, hiện nay có giảm
xuống cho thấy phương tiện đi lại ngày càng nhiều hơn nhất là phương tiện cộng
đồng như xe buýt đã xuất hiện trên nhiều tuyến đi của Bình Thuận tạo điều kiện
hạ chi tiêu tiền đi lại, nhất là hợp với túi tiền của khách du lịch thu nhập
thấp. Tuy nhiên các mức tỷ lệ chi tiêu khác như tiền
ăn uống (giảm cơ cấu 2.36%), chi mua hàng hoá, quà lưu niệm (giảm cơ cấu 2,24%),
Chi dịch vụ văn hoá, thể thao… cơ cấu giảm điều này cũng phải xem lại sản phẩm
du lịch phục vụ và cần phải đưa vấn đề nâng cao số lượng và chất lượng sản phẩm
du lịch đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của du khách.
Cơ
cấu chi tiêu bình quân một ngày khách (nội địa) theo các loại ngành thể hiện qua
bảng số liệu sau:
|
Cơ cấu (%) |
Tăng giảm cơ cấu năm 2008/2006
(+,-) |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
Tổng số |
100,00 |
100,00 |
100,00 |
|
Tiền thuê phòng |
31,50 |
33,58 |
38,56 |
7,06 |
Tiền ăn uống |
28,10 |
24,87 |
25,74 |
-2,36 |
Tiền đi lại |
14,40 |
11,34 |
12,16 |
-2,24 |
Chi phí tham quan |
4,00 |
5,22 |
5,07 |
1,07 |
Chi mua hàng hoá, quà lưu niệm |
12,90 |
15,84 |
10,78 |
-2,12 |
Chi dịch vụ văn hoá, thể thao |
3,30 |
2,08 |
3,02 |
-0,28 |
Chi phí y tế |
0,40 |
0,23 |
0,47 |
0,07 |
Chi khác |
5,40 |
6,84 |
4,21 |
-1,19 |
b)
Khách du
lịch quốc tế:
Đối với
khách quốc tế phần lớn lưu trú ở khách sạn hạng cao (loại 3 sao, 4 sao và các
resort đầy đủ tiện nghi) do vậy mức chi tiêu bình quân thường gần gấp 3 lần so
với khách nội địa và lưu trú độ dài ngày cao hơn. Theo kết quả điều tra cho thấy
chi tiêu bình quân của một ngày khách
quốc tế
năm 2008 là tăng 37,2% so với năm 2006, bình quân hàng năm tăng 17,1%.
Mức
độ tăng trưởng đi
theo
tour co xu thế tăng nhanh hơn:
mức chi bình quân theo tour hàng năm tăng 21,7% thì mức tăng tự sắp xếp
bình quân hàng năm tăng 15,3%.
Mức chi tiêu
bình quân của một ngày khách năm 2008 theo mục đích chuyến đi cũng những chênh
lệch nhất định do nhu cầu kết hợp công việc đối với khách quốc tế lại cao hơn. Ở
mức thấp có khách đi với mục đích thuần túy du lịch nghỉ ngơi là 1.211,9 nghìn
đồng,
khách
đi du lịch kết hợp với tham bạn bè, người thân là 1.229,3 nghìn đồng... Ở mức
cao hơn,
khách
đi du lịch kết hợp với Thương mại là 1.435,6 nghìn đồng,
khách
đi du lịch kết hợp với
công
tác, hội nghị, tập huấn
(1.880,7
nghìn đồng)...
Điều này cho thấy các loại khách kết hợp
thương mại,
báo chí, hội nghị thường ở mức rất cao, chúng ta
cũng hết sức
chú ý xem xét từng tính chất công việc của họ
để có những điều kiện đáp ứng nhu cầu của loại khách này đầy đủ hơn.
Mức chi tiêu
bình quân của một ngày khách năm 2008 theo độ tuổi, các nhóm tuổi từ 35 đến 54
chi tiêu khá cao so với các nhóm tuổi khác: Từ 35 đến 44 tuổi chi tiêu bình quân
1.405,4 nghìn đồng; Từ 45 đến 54 tuổi chi tiêu bình quân 1.336,3 nghìn đồng. Các
nhóm tuổi còn lại thấp hơn, thấp nhất là 15 – 24 tuối chi tiêu bình quân 979,3
nghìn đồng; Từ 25 đến 34 tuổi chi tiêu bình quân 1.1184,9 nghìn đồng; Từ 55 đến
64 tuổi chi tiêu bình quân 1.225,3 nghìn đồng; Trên 64 tuối chi tiêu bình quân
1.197,1 nghìn đồng.
Mức chi tiêu
bình quân của một ngày khách quốc tế năm 2008 theo nghề nghiệp cũng khác nhau,
mức chi cao rơi vào các nhà thương gia (chi tiêu bình quân 1.435 nghìn đồng),
kiến trúc sư (chi tiêu bình quân 1.514,2 nghìn đồng). ở mức thấp hơn như hưu
trí, học sinh, sinh viên
(chi
tiêu bình quân 1.262,2 nghìn đồng)
Mức chi tiêu
bình quân của một ngày khách năm 2008 theo
cơ cấu các loại ngành kinh tế chủ yếu thuê phòng và ăn uống, thấp hơn một chút
là tiền đi lại và chi mua hàng hóa, quà lưu niệm. Cơ cấu tiền thuê phòng vẫn giữ
mức tương đối ổn định trong những năm qua (31%). Đối với khách quốc tế rõ ràng
sẳn sàng giành mức chi tiêu khác ngoài ở, do vậy ngoài vấn đề nâng cấp các tiện
nghi phòng nghỉ ngày càng tốt hơn thì các vấn đề khác như ăn uống, vui chơi giải
trí, tham quan cũng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa, nhất là nhiều loại hình
giải trí đặc biệt giành cho khách quốc tế, phù hợp với từng khu vực của các nước
trên thế giới.
Vấn đề nâng cao số
lượng và chất lượng sản phẩm du lịch phải đặt lên hàng đầu, các khu du lịch cũng
phải đầu tư theo hướng lợi thế vùng như có bờ biển đẹp tự nhiên, bình lặng và
gắn với môi trường sinh thái vốn có của nó. Tạo ra một nơi lý tưởng để nghỉ
dưỡng, điều dưỡng biển, du lịch sinh thái biển và rừng kết hợp, các loại hình du
lịch thể thao trên biển; du lịch văn hoá lịch sử, các làng nghề đặc trưng…
Cơ
cấu chi tiêu bình quân một ngày khách quốc tế theo các loại ngành thể hiện qua
bảng số liệu sau:
|
Cơ cấu (%) |
Tăng giảm cơ cấu năm 2008/2006
(+,-) |
Năm 2006 |
Năm 2007 |
Năm 2008 |
Tổng số |
100,00 |
100,00 |
100,00 |
|
Tiền thuê phòng |
30,11 |
32,12 |
31,14 |
1,03 |
Tiền ăn uống |
28,10 |
28,72 |
29,05 |
0,95 |
Tiền đi lại |
17,38 |
13,19 |
17,80 |
0,42 |
Chi phí tham quan |
8,95 |
8,92 |
9,00 |
0,05 |
Chi mua hàng hoá, quà lưu niệm |
10,18 |
9,95 |
10,43 |
0,25 |
Chi dịch vụ văn hoá, thể thao |
1,97 |
2,94 |
1,45 |
-0,52 |
Chi phí y tế |
0,20 |
0,73 |
0,46 |
0,26 |
Chi khác |
3,11 |
3,43 |
0,67 |
-2,44 |
Từ chi tiêu khách du lịch cho thấy đã liên quan đến rất nhiều
ngành như khách sạn, nhà hàng và các ngành dịch vụ khác, đồng thời cũng có tác
động đến ngành công nghiệp chế biến, xây dựng dịch vụ… phát triển những sản phẩm
phục vụ cho du lịch. Qua đó cũng cho thấy hoạt
động du lịch của địa phương đã mang lại một khí thế thật là sôi đông hơn bao giờ
hết, thực tế ngành du lịch của tỉnh đã phát triển nhanh và có thể khẳng định,
ngành du lịch
tỉnh Bình Thuận đang vận hành theo xu hướng sớm trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, có nhiều triển vọng chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế.
Cũng qua chi
tiêu đã nói lên vấn đề phát huy thế mạnh của tỉnh, Bình Thuận là một tỉnh có
nhiều tiềm năng về thiên nhiên, nhân văn và lịch sử có nhiều lợi thế về du lịch,
cũng là nơi có nhiều bãi tắm đẹp quen thuộc của du khách như Cà Ná, Cù Lao Câu,
Đồi Dương, Rạng – Mũi Né, Mũi Kê Gà... Đến với Bình Thuận mọi con đường hầu như
được trãi nhựa, nhu cầu đi lại tỉnh đã mở ra nhiều tuyến xe buýt thuận lợi cho
việc đi lại thông tuyến với những khu tham quan du lich và giúp cho du lịch ngày
càng phát triển hơn. Đó cũng là vấn đề đặt ra cho tỉnh ta làm sao phát huy tiềm
năng chưa khai thác đầy đủ này, tăng nguồn thu từ du lịch làm thay đổi bộ mặt
của tỉnh, ưu việt hơn về du lịch và xứng đáng với thành phố du lịch trong tương
lai.
|