9. Đánh giá tổng quát
Ba năm qua, trong bối cảnh kinh tế thế giới khó khăn; kinh tế trong nước đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức; Kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận vẫn tiếp tục chuyển biến tích cực. Sản lượng lương thực tăng; sản xuất công nghiệp, khai thác hải sản, kim ngạch xuất khẩu cơ bản giữ ổn định; hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tốc độ tăng trưởng tuy thấp so với những năm trước nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng trưởng cả nước. Thu nhập từ các ngành nghề sản xuất kinh doanh tiếp tục tăng; đời sống của những người làm công ăn lương được tiếp tục cải thiện. Mức tích lũy của hộ ở các khu vực, các vùng tuy có khác nhau, song nhìn chung là có tăng lên. Đã tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo và nhiều chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn; tiếp tục cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo. Tình trạng thiếu đói, khó khăn trong sinh hoạt ở khu vực nông thôn giảm so với những năm trước. Đời sống các tầng lớp dân cư có chuyển biến tiến bộ rõ rệt, dân cư các vùng đã phát huy tốt tinh thần trách nhiệm, tham gia tích cực việc đóng góp lập các quỹ xã hội, đóng góp nhiều ý kiến cho địa phương, phát huy được tinh thần làm chủ tập thể.
Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, kết hợp với sự biến động giá hàng hoá, dịch vụ tác động trực tiếp đến đời sống dân cư; nếu phân loại về mức sống dựa vào kết quả thu nhập bình quân đầu người/tháng, có thể phân theo nhóm hộ sau đây:
- Hộ có mức sống cao
(Thành thị: Thu nhập từ trên 6,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 5,0 triệu đồng trở lên)
Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống cao là 5,06%; trong đó thành thị 4,91%, nông thôn 5,16% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống cao là 3,66%; trong đó thành thị 2,5%, nông thôn 4,21%)
- Hộ có mức sống khá
(Thành thị: Thu nhập từ trên 4,0 triệu đồng – 6,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 3,0 triệu đồng - 5,0 triệu đồng).
Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống khá là 13,13%; trong đó thành thị 8,42%, nông thôn 16,02% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống khá là 22,8%; trong đó thành thị 18,13%, nông thôn 22,53%)
- Hộ có mức sống trung bình
(Thành thị: Thu nhập từ trên 2,0 triệu đồng - 4,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 1,5 triệu - 3,0 triệu đồng).
Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 46,20%; trong đó thành thị 47,72%, nông thôn 45,27% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 29,46%; trong đó thành thị 18,96%, nông thôn 34,41%)
- Hộ có mức sống dưới trung bình
(Thành thị: Thu nhập từ trên 1,5 triệu đồng - 2,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 920 ngàn đồng - dưới 1,5 triệu đồng).
Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 20,40%; trong đó thành thị 20,0%, nông thôn 20,65% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 26,8%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 25,2%)
- Hộ có mức sống thấp
(Thành thị: Thu nhập từ 1,5 triệu đồng trở xuống; Nông thôn từ 920 ngàn đồng trở xuống).
Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 15,20%; trong đó thành thị 18,95%, nông thôn 12,90% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 27,4%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 26,08%).
Trong đó Hộ nghèo (theo mức chuẩn: thành thị từ 500 ngàn đồng trở xuống; nông thôn từ 400 ngàn đồng trở xuống) toàn tỉnh là 4,93%; trong đó thành thị 3,16%, nông thôn 6,02% (năm 2010: tỷ lệ hộ nghèo còn 9,33%; trong đó thành thị 3,96%, nông thôn 11,8%)
+ Hộ cận nghèo (theo mức chuẩn: thành thị từ trên 500 - 650 ngàn đồng; nông thôn từ trên 400 - 520 ngàn đồng) toàn tỉnh là 3,0%; trong đó thành thị 2,98%, nông thôn 3,01% (năm 2010: toàn tỉnh là 4,9%; trong đó thành thị 3,7%, nông thôn 5,5%)
Như vậy so với năm 2010, tỷ lệ hộ có mức sống cao đã tăng lên cả 2 khu vực; tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình, mức sống thấp giảm khá nhiều. Điều đó cho thấy thu nhập của các tầng lớp dân cư được tăng lên; tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm xuống.
Song nếu đưa yếu tố trượt giá tiêu dùng (CPI) với mức tăng thêm 40% so với năm 2010 thì Hộ nghèo (thành thị từ 700 ngàn đồng trở xuống; nông thôn từ 560 ngàn đồng trở xuống) và hộ cận nghèo (thành thị từ trên 700 – 920 ngàn đồng; nông thôn từ trên 560 – 740 ngàn đồng) có tỷ lệ như sau:
Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 8,47%; trong đó thành thị 6,32%, nông thôn 9,78%
Tỷ lệ hộ cận nghèo toàn tỉnh là 1,20%; trong đó thành thị 1,23%, nông thôn 1,18%.
Như vậy theo mức chuẩn hộ nghèo (có tính đến yếu tố trượt giá tiêu dùng) thì tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh chỉ giảm 0,86% (so với năm 2010); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 3,7% (so với năm 2010).
Trong những năm qua trước tình hình kinh tế thế giới gặp nhiều khó khăn đã gây áp lực lớn cho sản xuất kinh doanh nước ta. Mặc dù vậy, kinh tế xã hội tỉnh nhà đã có những chuyển biến tích cực: Sản lượng lương thực và các cây trồng có giá trị kinh tế tăng liên tục; sản xuất công nghiệp, khai thác thuỷ sản ổn định; hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục phát triển; kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng trưởng đều nên đã tác động đến việc tiếp tục cải thiện mức sống của hộ gia đình ở các khu vực, các vùng. Đây là một cố gắng lớn của Đảng bộ và chính quyền địa phương, khẳng định đường lối đúng đắn cùng với các biện pháp chỉ đạo hiệu quả nâng cao mức sống của dân cư. Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng, đời sống các tầng lớp dân cư được tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ hộ có mức sống cao tiếp tục tăng. Đa số chủ hộ gia đình nhận định mức sống khá hơn so với những năm trước với kết quả sau:
Tại thành thị, có 41,7% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 52,8% cho là mức sống tương đương như năm 2010
Tại nông thôn, có 56% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 39,7% cho là mức sống tương đương như năm 2010
Vùng đồng bằng, có 38,6% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 54,0% cho là mức sống tương đương như năm 2010
Vùng trung du, có 35% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 62,5% cho là mức sống tương đương như năm 2010
Vùng miền núi, có 61,2% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 35,1% cho là mức sống tương đương như năm 2010
Vùng cao, hải đảo có 34,2% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 60,8% cho là mức sống tương đương như năm 2010
10. Một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục cải thiện, nâng cao mức sống:
Tiếp tục cải thiện, nâng cao mức sống dân cư có nhiều giải pháp, song căn cứ vào tiềm năng và thực trạng nền kinh tế xã hội của tỉnh nhà; qua kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình, xin kiến nghị một số giải pháp sau:
a. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc nâng cao chất lượng lao động, đào tạo các ngành nghề, đáp ứng nhu cầu của từng ngành, từng khu vực
Tăng trưởng và phát triển kinh tế được quyết định bởi nhân tố con người nói chung và lực lượng lao động nói riêng, bởi tăng trưởng và phát triển kinh tế tuỳ thuộc trước hết vào năng lực, trí tuệ và ngành nghề của người lao động. Vì vậy cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng lao động
Bình Thuận có nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn lao động, năng suất lao động xã hội còn thấp, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trình độ văn hoá của lao động tuy không thấp so với của cả nước nhưng đại bộ phận là không được qua đào tạo chuyên môn nghiệp vụ.
Ở khu vực nông thôn, nếu nâng cao chất lượng lao động thông qua việc đào tạo nghề được triển khai tích cực sẽ giúp lao động chuyển nghề, hướng đến chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của chương trình xây dựng nông thôn mới. Vì vậy để nâng cao chất lượng lao động, đào tạo nghề có hiệu quả, mỗi xã cần lựa chọn các nghề phù hợp với nguyện vọng của người dân và dự án phát triển sản xuất tại địa phương theo quy hoạch nông thôn mới, làm tốt việc gắn trách nhiệm giữa các bên, nhất là với doanh nghiệp để đảm bảo đầu ra ổn định cho người lao động, không chạy theo số lượng nhằm để người lao động học xong có việc làm, nâng cao thu nhập.
Những năm qua, công tác đào tạo, dạy nghề và phát triển các trường chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên luôn được quan tâm, song tỷ lệ người lao động từ 15 tuổi trở lên được đào tạo qua trường lớp chưa nhiều. Theo kết quả điều tra năm 2013, toàn tỉnh có 16,43% người lao động từ 15 tuổi trở lên đã được đào tạo từ sơ cấp nghề trở lên, trong đó thành thị 20,87%, nông thôn 13,58% (năm 2010: toàn tỉnh 8,43%, thành thị 13,45%, nông thôn 5,87%). Nếu tính từ trình độ cao đẵng nghề trở lên toàn tỉnh đạt 6,31%, trong đó thành thị 8,64%, nông thôn 4,82% (năm 2010: toàn tỉnh 3,25%, thành thị 5,2%, nông thôn 2,27%).
Trong giai đoạn 2011-2013, thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề ... hàng năm đã tạo việc làm cho gần 24 ngàn lao động, song chất lượng lao động còn thấp, chưa thật ổn định, một số cơ sở tuyển dụng lao động chưa thật “ưng ý” do ngành nghề đào tạo tại địa phương chưa phù hợp với nhu cầu tuyển dụng. Qua điều tra cho thấy tỷ lệ chủ hộ đề xuất Nhà nước cần chú ý đào tạo ngành nghề Kỹ thuật nông nghiệp là 63,4%; nuôi trồng thuỷ sản là 22,4%; Kỹ thuật xây dựng là 18,27%; Chế biến thực phẩm là 27,47%; Du lịch 14,6%; Các ngành kinh tế 39,13%. Do vậy trong thời gian tới các đơn vị đào tạo phải nghiên cứu và có những giải pháp thích hợp hơn trong việc đào tạo, dạy nghề.
b. Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp ở các khu vực, tạo việc làm ổn định cho người lao động
Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp sẽ đưa nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Ở nông thôn, nếu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nhóm ngành nông lâm thủy sản để tăng nhóm ngành công nghiệp dịch vụ sẽ tạo thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy nhanh đến tiến trình xây dựng nông thôn mới. Nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ nếu được phát triển đồng đều ở 2 khu vực sẽ tạo điều kiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất lao động, tạo động lực để chuyển dịch lao động giữa các ngành và nội bộ ngành đồng thời giảm thiểu việc di chuyển lao động giữa các vùng địa lý hành chính. Mặt khác, nếu phát triển được các ngành công nghiệp dịch vụ hướng về xuất khẩu sử dụng nhiều lao động (đặc biệt là lao động nông thôn) và những ngành đảm bảo tăng việc làm nhanh sẽ duy trì được sự cân bằng giữa tăng việc làm với tăng năng suất cả ở 2 khu vực, đưa nền kinh tế ổn định và bền vững. Hiện nay, lao động nông thôn ở Bình Thuận khá nhiều nhưng thời gian nhàn rỗi còn tương đối cao, đa số là thuần nông, thu nhập bấp bênh; lao động phi nông nghiệp cả thành thị và nông thôn lại chưa tạo ra động lực về chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm, không đáp ứng đúng và theo kịp nhu cầu thị trường. Đây là vấn đề tồn tại, cần khắc phục trong những năm tới. Năm 2013 cơ cấu lao động nông lâm thuỷ sản còn 48,2% (năm 2010: 52,2%); công nghiệp xây dựng 19,6% (năm 2010: 17,1%); dịch vụ 32,2% (năm 2010: 30,7%). Kết quả chuyển dịch như vậy là khá tích cực và cần phải tiếp tục đẩy nhanh trong những năm tới (giảm cơ cấu lao động nông lâm thủy sản mỗi năm xuống 1,0-1,5%) để nâng dần nhóm lao động công nghiệp, xây dựng, dịch vụ cho phù hợp với cơ cấu kinh tế của tỉnh nhà.
Theo kết quả điều tra, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc năm 2013 là 87,8% (năm 2010: 80,5%; trong đó thành thị 83,4% (năm 2010: 77,7%); nông thôn 90,6% (năm 2010: 81,9%). Tỷ lệ người đang làm việc ổn định so với số người có nhu cầu làm việc là 84,1% (năm 2010: 81,7%); trong đó thành thị 81,4% (năm 2010: 87%); nông thôn 85,7% (năm 2010: 79,2%). Tỷ lệ người có việc làm nhưng chưa ổn định so với người có nhu cầu làm việc là 12,6% (năm 2010: 14,5%); trong đó thành thị 15,4% (năm 2010: 9,4%); nông thôn 10,9% (năm 2010: 16,9%). Tỷ lệ người thất nghiệp so với người có nhu cầu làm việc là 3,3% (năm 2010: 3,8%); trong đó thành thị 3,1% (năm 2010: 3,6%); nông thôn 3,4% (năm 2010: 4%).
Như vậy tỷ lệ người lao động có nhu cầu làm việc năm 2013 ở 2 khu vực đều tăng so với năm 2010; tỷ lệ người đang làm việc ổn định ở khu vực thành thị năm 2013 thấp thua so với năm 2010, song ở khu vực nông thôn cao hơn; tỷ lệ người thất nghiệp năm 2013 ở 2 khu vực đều giảm so với năm 2010; tỷ lệ người có việc làm “bấp bênh” ở khu vực thành thị tăng cao hơn so với năm 2010, song ở khu vực nông thôn đã giảm nhiều. Trong điều kiện kinh tế phát triển những năm qua gặp nhiều khó khăn, kết quả trên đã cho thấy có những dấu hiệu khá tích cực, nhất là ở khu vực nông thôn, song cần phải chú ý hơn nữa tạo việc làm cho số người đến tuổi lao động. Do vậy trong thời gia tới, các ngành chức năng phải thường xuyên phối hợp với các địa phương xem xét tạo nhiều cơ hội việc làm có thu nhập ổn định cho người lao động; tăng cường cải thiện điều kiện việc làm thông qua vay vốn tạo việc làm, tiếp cận thông tin, thông tin thị trường lao động, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề; Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề lao động nông thôn, lao động đi làm việc ở nước ngoài nhằm hỗ trợ tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao năng lực cho người lao động nghèo, lao động mất việc làm và thất nghiệp.
c. Khắc phục những tồn tại, hạn chế; có những chính sách hỗ trợ thích hợp, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển
Trong những năm qua kinh tế tỉnh nhà đã có chuyển biến tích cực, song trên một số lĩnh vực vẫn còn những khó khăn nhất định: Chăn nuôi hồi phục chậm; nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn; phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến phát huy chưa đồng bộ. Sản xuất công nghiệp có phát triển song thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, hiệu quả sản xuất thấp; các làng nghề tiểu thủ công nghiệp hoạt động chưa khởi sắc; sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường, thiết bị - công nghệ sản xuất lạc hậu, sản phẩm chưa có thương hiệu nên khó cạnh tranh trên thương trường; cơ chế chính sách cho phát triển nghề và làng nghề chưa triển khai đầy đủ, đồng bộ. Xuất khẩu chế biến từ nguồn nguyên liệu tại địa phương còn ít. Triển khai xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp chậm, thu hút đầu tư thấp. Phát triển du lịch chưa đi vào chiều sâu, chưa thu hút được nhiều dự án có quy mô lớn. Những khó khăn đó sẽ tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động và thu nhập của các tầng lớp dân cư. Do vậy cần phải có những giải pháp tích cực hơn nữa trong từng ngành, từng lĩnh vực để thúc đẩy kinh tế tỉnh nhà phát triển ổn định.
Mặt khác do ảnh hưởng kinh tế thế giới và trong nước trong những năm gần đây gặp khó khăn cùng với tình trạng thiếu vốn, thiếu lao động lành nghề, hiệu quả sản xuất các năm gần đây “kém” nên ý tưởng phát triển thêm ngành nghề, mở rộng sản xuất kinh doanh của hộ “bị chựng lại”. Qua điều tra cho thấy có 64,7% hộ không có ý định mở rộng sản xuất; trong số này có 28,5% số hộ nêu nguyên nhân thiếu vốn; 18,5% số hộ nêu nguyên nhân thiếu lao động lành nghề; 45,6% số hộ nêu nguyên nhân hiệu quả sản xuất các năm gần đây “kém”
Về hoạt động sản xuất kinh doanh qua điều tra có 22,4% chủ hộ cho biết đang phải vay thêm vốn để hoạt động, trong số đó có 65,8% số hộ đang vay vốn trên 20 triệu đồng (bình quân mỗi hộ đang có số dư nợ 46 triệu đồng, trong đó thành thị 48,1 triệu đồng; nông thôn 45,2 triệu đồng). Đó cũng chính là nhu cầu mức vay của hộ hiện nay, do vậy các cấp, các ngành hữu quan phải xem xét, tiếp tục mở rộng diện cho vay không cần thế chấp để các hộ có thu nhập ổn định.
d. Đảm bảo trật tự an toàn xã hội; ổn định về môi trường để phát triển kinh tế bền vững; thực hiện an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư
Cùng với việc phát triển nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động, có chính sách hỗ trợ thích hợp đẩy mạnh sản xuất kinh doanh, tạo việc làm ổn định cho người lao động, phải chú trọng đảm bảo trật tự an toàn xã hội; ổn định về môi trường để phát triển kinh tế bền vững, thực hiện an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.
Để đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội trong sạch, vững mạnh, cần tiếp tục duy trì phong trào xây dựng gia đình văn hoá, phong trào xây dựng thôn, khu phố văn hoá. Phải coi việc xây dựng gia đình văn hoá là nền tảng, là nội dung cơ bản của phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”. Cần nêu cao tinh thần trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể về tình trạng tệ nạn xã hội trên từng địa bàn; phát huy vai trò làm chủ của từng người dân, từng cộng đồng tham gia đấu tranh, ngăn chặn và đẩy lùi tệ nạn xã hội; kiên quyết dẹp bỏ những hình thức văn hoá không lành mạnh; đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực xã hội, lên án lối sống ích kỷ, hám tiền, ăn chơi xa xỉ, truỵ lạc. Tăng cường hợp tác với các tỉnh lân cận trong lĩnh vực ngăn ngừa phòng chống tội phạm, các tệ nạn xã hội nhằm giữ gìn trật tự, an toàn xã hội
Đối với môi trường tự nhiên: Cần có sự kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên, bảo đảm cho mọi người dân đều được sống trong môi trường trong sạch và lành mạnh. Tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở các khu công nghiệp, các khu dân cư đông đúc ở khu vực thành thị và một số vùng nông thôn bằng cách khuyến khích sản xuất sạch, công nghệ tốt,… nhằm đạt hiệu quả cao về quản lý năng lượng và quản lý chặt chẽ vấn đề chất thải. Kiểm soát độ ô nhiễm trên các dòng sông, hồ ao, kênh mương…. Xây dựng các công trình làm sạch môi trường như: xử lý rác, chất thải, nguồn nước thải, bụi, tiếng ồn, trồng cây xanh,… ở thành phố và các thị trấn. Phát triển các công trình vệ sinh tự hoại ở nông thôn. Quy hoạch sử dụng đất đai, nước và các tài nguyên hợp lý, tiết kiệm cho các loại hình kinh tế - sinh thái (đô thị, đồng bằng, nông thôn,…).
Kết quả điều tra cho thấy khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa hộ thuộc nhóm thu nhập cao và nhóm thu nhập thấp vẫn còn khá xa. Thu nhập bình quân/nhân khẩu thuộc nhóm hộ có thu nhập cao nhất gấp 6,39 lần so với nhóm hộ có thu nhập thấp nhất (2010: gấp 6,43 lần). Nhóm hộ có thu nhập cao thường có tài sản, vốn SXKD khá, đầu tư trên nhiều lĩnh vực nên dễ ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu. Nhóm hộ có thu nhập thấp thường là hộ có vốn sản xuất kinh doanh ít, đông nhân khẩu ăn theo và lao động trong hộ có việc làm không ổn định nên dễ dẫn đến tình trạng “tái nghèo” nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước. Đáng chú ý là hộ nghèo, cận nghèo đông nhân khẩu trở lên còn chiếm tỷ trọng khá cao; qua kết quả điều tra hộ nghèo có từ 5 nhân khẩu trở lên chiếm 27% và hộ cận nghèo chiếm 29%. Do vậy trong thời gian tới, các chính sách giảm nghèo phải tiếp tục tập trung vào việc hỗ trợ nguồn lực về sản xuất để cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo thông qua việc tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ người nghèo, huyện nghèo, xã, thôn .. đặc biệt khó khăn nhằm hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách về đời sống và tiếp cận dịch vụ xã hội.
Song song với vấn đề tạo việc làm cho người đến tuổi lao động; đẩy mạnh thực hiện giảm nghèo, cần chú trọng đến phát triển bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm chăm sóc y tế tối thiểu.
Trong bối cảnh tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, già hóa dân số,… việc phát triển hệ thống bảo hiểm, đặc biệt bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp… hoàn thiện tổ chức quản lý và chi trả BHXH là một trong những nội dung cơ bản của chính sách an sinh xã hội nhằm nâng cao tính chủ động, khả năng tự an sinh của người dân khi xảy ra các tác động bất lợi về kinh tế, xã hội, môi trường và an sinh tuổi già. Cần hoàn thiện cơ chế, chính sách và phương thức tổ chức thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp đột xuất đảm bảo người dân khi gặp rủi ro, thiên tai, bão lụt, bị chết người, mất tài sản được hỗ trợ kịp thời để vượt qua khó khăn, khôi phục sản xuất, việc làm, đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống; phát triển các hình thức an sinh xã hội; tổ chức tốt các phong trào tương thân, tương ái, huy động cộng đồng nhằm hỗ trợ kịp thời người dân khắc phục rủi ro đột xuất.
Thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân; có chính sách hỗ trợ phí mua cho người dân có thu nhập từ dưới trung bình trở xuống hiện chưa bắt buộc tham gia. Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số; cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.