[1][2][3][4][5][6][7][8][9]

Chỉ tiêu này ở năm 2006 là: tỷ lệ hộ có nhà ở kiên cố 10,4%, nhà bán kiên cố 67,3%. Về nhà ở tạm, nhà khác: vùng đồng bằng là 10,5%; trung du 9,8%; miền núi 11,6%; vùng cao, hải đảo 18,2%.

Như vậy chất lượng nhà ở đã được cải thiện đáng kể trên tất cả các vùng. Có thể nói đây là kết quả của quá trình tích luỹ từ phát triển kinh tế gia đình để xây dựng, nâng cấp nhà ở của người dân cùng với sự vận động xây dựng Quỹ đền ơn đáp nghĩa, hỗ trợ xây sửa nhà ở các đối tượng chính sách trong 4 năm qua.

Bằng nhiều nguồn vốn, trong những năm qua các địa phương đã tiếp tục chú trọng đến việc đầu tư hạ tầng như phát triển điện lưới, thực hiện chướng trình hệ thống nước sạch nông thôn, hệ thống thoát nước… Do vậy số hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh, sử dụng điện lưới, có hố xí hợp vệ sinh ngày càng nhiều. Kết quả điều tra cho thấy ở các vùng ngày càng được nâng lên; tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh ở vùng đồng bằng là 99,2%; miền núi 97,8%; trung du 94,2%; vùng cao, hải đảo 80,8%; tỷ lệ hộ có hố xí tự hoại đạt 96,5%; tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia ở vùng đồng bằng và trung du đạt 100%; miền núi, vùng cao, hải đảo 99,2%.

Chỉ tiêu này năm 2006 là: tỷ lệ hộ sử dụng nguồn nước hợp vệ sinh ở vùng đồng bằng là 97,8%; miền núi 86,9%; trung du 94,2%; vùng cao, hải đảo 78,8%; tỷ lệ hộ có hố xí tự hoại đạt 74,3%; tỷ lệ hộ dùng điện lưới quốc gia ở vùng đồng bằng và trung du đạt 97,7%; miền núi, vùng cao, hải đảo 92,9%.

Song song với việc cải thiện nhà ở và vệ sinh môi trường, việc sử dụng các thiết bị, tiện nghi sinh hoạt hộ gia đình cũng được nâng lên. Tính chung ở các địa bàn điều tra, tỷ lệ hộ có ti vi là 95,9% (năm 2006: 75%); tỷ lệ hộ có đầu đĩa, dàn nghe nhạc 75,7% (năm 2006: 48,4%), có tủ lạnh 51,7% (năm 2006: 10,5%), có máy giặt 14,5%, có xe máy 79% (năm 2006: 66,5%), có máy vi tính 12,6%. Tỷ lệ hộ có ti vi, đầu đĩa, dàn nghe nhạc… (thiết bị tiếp cận thông tin, văn hoá hàng ngày) nhìn chung không có chênh lệch xa giữa các loại hộ và các vùng. Các hộ nông lâm nghiệp, xây dựng, thuỷ sản có tỷ lệ sử dụng tủ lạnh thấp so với hộ thương mại, dịch vụ, công nghiệp-TTCN. Tỷ lệ hộ có xe máy ở hộ xây dựng và thuỷ sản ít hơn so với những hộ khác. Nhìn chung các thiết bị đồ dùng: máy giặt, tủ lạnh, máy vi tính tập trung nhiều ở khu vực thành thị và các hộ thương nghiệp, dịch vụ, hộ làm công ăn lương. Trị giá đồ dùng lâu bền bình quân 1 hộ đạt 26,3 triệu đồng, trong đó hộ thành thị đạt 32,7 triệu đồng, hộ nông thôn đạt 23,3 triệu đồng. Hộ hoạt động ngành dịch vụ có trị giá đồ dùng lâu bền đạt cao nhất (61,6 triệu đồng/hộ); kế đến là hộ thương nghiệp, làm công ăn lương (36,5 triệu đồng), hộ công nghiệp-TTCN (28,1 triệu đồng); hộ thủy sản (23,6 triệu đồng); hộ nông lâm nghiệp (18,5 triệu đồng); hộ xây dựng (13,6 triệu đồng). Hộ sinh sống ở vùng trung du có trị giá đồ dùng lâu bền đạt cao nhất (28,9 triệu đồng); thấp nhất là ở vùng cao, hải đảo (16,1 triệu đồng).

So với năm 2006, ở khu vực nông thôn cũng có những thay đổi nhanh trong việc sử dụng các thiết bị, tiện nghi sinh hoạt hộ gia đình. Tỷ lệ hộ có ti vi là 94,9% (năm 2006: 75%); tỷ lệ hộ có đầu đĩa, dàn nghe nhạc 74,8% (năm 2006: 48,4%), có tủ lạnh 46,8% (năm 2006: 10,5%), có xe máy 76,1% (năm 2006: 66,5%).

Không những tỷ lệ hộ sử dụng thiết bị, tiện nghi phục vụ sinh hoạt được tăng lên; số lượng đồ dùng trong hộ cũng tăng thêm khá. Năm 2009, bình quân 100 hộ gia đình có 106 chiếc ti vi (năm 2006: 84 chiếc); 78 chiếc đầu đĩa nghe nhạc (năm 2006: 56 chiếc); 53 chiếc tủ lạnh (năm 2006: 18 chiếc); 125 chiếc xe máy (năm 2006: 83 chiếc); 13 bộ máy vi tính (năm 2006: 4 bộ). Đây là kết quả tất yếu của quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội, trong đó có kinh tế hộ gia đình và nhu cầu sinh hoạt ngày càng càng tăng lên các tầng lớp dân cư.

3. Thu nhập và phân loại mức sống của hộ qua thu nhập

Sự thay đổi nhanh về nhà ở, môi trường sống, tiện nghi sinh hoạt … bắt nguồn chủ yếu từ kết quả thu nhập. Kết quả điều tra năm 2009 cho thấy thu nhập bình quân 1 người 1 tháng chung cả tỉnh đạt 1,072 triệu đồng (năm 2006: 577 ngàn đồng), trong đó thành thị 1,317 triệu đồng (2006: 727,8 ngàn đồng); nông thôn 956 ngàn đồng (2006: 512,2 ngàn đồng). Phân theo vùng cho thấy hộ sinh sống ở vùng đồng bằng đạt 1,251 triệu đồng; trung du 1,426 triệu đồng; miền núi 996 ngàn đồng; vùng cao, hải đảo 655 ngàn đồng

Những hộ có thu nhập cao là : xây dựng (1,79 triệu đồng/người); làm công ăn lương (1,62 triệu đồng/ người); thương nghiệp (1,42 triệu đồng/ người); dịch vụ (1,27 triệu đồng/người). Những hộ có mức thu nhập thấp là: công nghiệp-TTCN (1,19 triệu đồng/ người); nông lâm nghiệp (791 ngàn đồng/ người); hộ khác (413 ngàn đồng/người).

Như vậy mức thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 2009 ở thành thị gấp 1,37 lần so với nông thôn (năm 2006: gấp 1,42 lần); vùng trung du gấp 1,43 lần miền núi, vùng đồng bằng gấp 1,9 lần so với vùng cao, hải đảo. Hộ thương nghiệp cao gấp 1,8 lần so với hộ nông lâm nghiệp; hộ làm công ăn lương cao gấp 1,3 lần hộ thuỷ sản.

Phân tích cụ thể hơn về từng mức thu nhập bình quân đầu người 1 tháng theo từng khu vực và vùng cũng cho thấy cơ cấu như sau:

- Khu vực thành thị:

Dưới 500 ngàn đồng/người/tháng chiếm 2,92%; từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng: 31,25%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 35,21%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 16,88%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 9,58%; từ 3 triệu đồng trở lên: 4,17%

- Khu vực nông thôn:

Dưới 500 ngàn đồng/người/tháng chiếm 18,92%; từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng: 44,7%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 22,84%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 6,96%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 4,80%; từ 3 triệu đồng trở lên: 1,76%

- Vùng đồng bằng:

Dưới 500 ngàn đồng/người/tháng chiếm 1,54%; từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng: 37,44%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 33,84%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 15,38%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 8,46%; từ 3 triệu đồng trở lên: 3,33%

- Vùng trung du:

Từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng chiếm 21,66%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 33,84%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 17,50%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 10,83%; từ 3 triệu đồng trở lên: 5%.

- Vùng miền núi:

Dưới 500 ngàn đồng/người/tháng chiếm 14,71%; từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng: 47,47%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 23,32%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 7,36%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 5,28%; từ 3 triệu đồng trở lên: 1,95%

- Vùng cao, hải đảo:

Dưới 500 ngàn đồng/người/tháng chiếm 60,83%; từ 500 ngàn đồng đến dưới 1 triệu đồng: 17,49%; từ 1 triệu đồng đến dưới 1,5 triệu đồng: 11,67%; từ 1,5 triệu đồng đến dưới 2 triệu đồng: 5,83%; từ 2 triệu đồng đến dưới 3 triệu đồng: 2,50%; từ 3 triệu đồng trở lên: 1,67%

[1][2][3][4][5][6][7][8][9]