[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 ]

 

 

 

2. Kết quả hoạt động du lịch 2007-2012:

Phát triển du lịch tại địa phương mang lại khí thế sôi động, thực tế ngành du lịch của tỉnh đã phát triển nhanh chóng và khẳng định được mình đang vận hành theo xu hướng trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn và chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh. Hoạt động du lịch đã mang lại những kết quả đáng khích lệ ngày càng trở thành ngành quan trọng nâng dần tỷ trọng GDP chiếm trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Trong đó các doanh nghiệp du lịch mà chủ yếu là các resort và khách sạn, giữ vị trí quyết định trong việc thu hút du khách đến vui chơi. Du khách quốc tế cơ cấu chuyển biến theo hướng tăng cơ cấu, trong đó lượng du khách Nga chuyển biến cơ cấu nhanh về nhịp độ gia tăng lượng khách đến Việt Nam nhất là từ năm 2009 trở đi (Chính phủ ta có quyết định tạo điều kiện thuận lợi cho du khách Nga vừa không mất thời gian trong việc đăng ký visa nhập cảnh, kể từ ngày 01/01/2009 công dân Liên bang (LB) Nga mang hộ chiếu phổ thông, không phân biệt mục đích nhập cảnh được miễn thị thực khi nhập cảnh, xuất cảnh Việt Nam với thời hạn tạm trú tại Việt Nam không quá 15 ngày kể từ ngày nhập cảnh). Bên cạnh đó tỉnh có nhiều cố gắng nâng chất lượng phục vụ, đa dạng hóa sản phẩm, giảm chi phí v.v… nhờ vậy lượng khách đến những năm tiếp theo tăng khá. Từ năm 2007 - 2012 tốc độ tăng được thể hiện qua kết quả sau:

 + Lượt khách phục vụ: Năm 2007 là 1.801.657 lượt khách thì năm 2012 được 3.140.947 lượt khách, bình quân hàng năm tăng 12,54%. Trong đó lượt khách ngủ qua đêm năm 2007 là 1.391.690 lượt khách thì năm 2012 được 3.490.396 lượt khách, bình quân hàng năm tăng 12,34%.

Riêng khách quốc tế: Năm 2007 là 177.871 lượt khách thì năm 2012 được 340.200 lượt khách, bình quân hàng năm tăng 13,85%. Trong đó lượt khách ngủ qua đêm năm 2007 là 163.340 lượt khách thì năm 2012 được 320.969 lượt khách, bình quân hàng năm tăng 14,47%.

+ Tổng số ngày khách phục vụ: Năm 2007 là 2.295.419 ngày khách thì năm 2012 được 4.367.217 ngày khách, bình quân hàng năm tăng 13,73% . Trong đó khách quốc tế: Năm 2007 là 440.646 ngày khách thì năm 2012 được 1.045.000 ngày khách, bình quân hàng năm tăng 18,85%.

Đối với dịch vụ du lịch lữ hành (phục vụ thuê tour trọn gói từ Bình Thuận đi đến các tỉnh khác) còn ít đơn vị nên lượt khách phục vụ năm 2007 có 9.186 lượt khách thì năm 2012 được 14.278 lượt khách, bình quân hàng năm tăng 9,22%. Tổng số ngày khách phục vụ năm 2007 có 56.426 ngày khách thì năm 2012 được 92.717 ngày khách, bình quân hàng năm tăng 10,44%. Các đơn vi du lịch trong tỉnh cần tích cực khai thác mạnh dịch vụ này.

Hoạt động quảng bá du lịch tiếp tục được tăng cường bằng nhiều hình thức như: tổ chức tham gia ngày hội du lịch thành phố Hồ Chí Minh lần thứ VIII 2012; liên hoan ẩm thực Đất Phương Nam; vận động các doanh nghiệp du lịch tham gia liên hoan ẩm thực Miền trung tại Huế do Tổng cục Du lịch tổ chức, xây dựng hoàn chỉnh maket ấn phẩm “ cẩm nang du lịch Bình Thuận” vận động các doanh nghiệp tham gia quảng bá trên ấn phẩm. Cùng với việc nỗ lực quảng bá thương hiệu về du lịch ra thị trường nước ngoài, mở rộng cơ sở vật chất và nâng chất lượng phục vụ, bản đồ du khách quốc tế đến Bình Thuận ngày càng mở rộng. Từ năm 2007 du lịch Bình Thuận có 177 nước, vùng, lãnh thổ, đến năm 2012 có 170 nước vùng, lãnh thổ. Trong đó Liên bang Nga nơi có rất đông du khách luôn chọn Phan Thiết-Mũi Né là điểm đến khi du lịch tại Việt Nam. Tuy số lượng nước, vùng lãnh thổ giảm nhưng lượng khách tăng cao, cơ cấu du khách Nga ngày càng tăng lên rõ rệt. Người Nga, người Đức thích Mũi Né và cho rằng Mũi Né là nơi nhiều nắng gió và thích hợp với các môn thể thao trên biển vốn được họ ưa chuộng. Còn người Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… đến Việt Nam là bởi vì họ yêu thích những danh lam, thắng cảnh và hâm mộ nền văn hoá truyền thống của chúng ta. Do vậy cần phải nghiên cứu sâu sở thích của mỗi du khách của mỗi nước.

Cơ cấu số lượng lượt khách quốc tế theo nước so với tổng số lượt khách quốc tế xếp từ cao xuống thấp như sau:

 

Cơ cấu (%)

Năm
2007

Năm
2008

Năm
2009

Năm
2010

Năm
2011

Năm
2012

Tổng số

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

100,0

Liên Bang Nga

8,7

13,1

24,7

34,2

35,0

35,6

CH Liên Bang Đức

11,9

15,0

15,4

12,5

12,6

8,9

Pháp

10,0

8,1

6,2

5,6

5,1

4,7

CH Hàn Quốc

9,7

7,0

5,6

4,4

5,0

5,0

Trung Quốc

2,8

2,5

3,1

3,6

4,9

7,2

Mỹ

10,4

8,1

6,2

5,6

4,7

4,6

Ô-xtrây-li-a

7,2

6,2

4,8

4,3

4,1

3,7

Vương quốc Anh

5,3

5,3

4,1

3,7

3,9

3,7

Thụy Điển

2,0

5,3

5,2

3,6

2,7

1,9

Hà Lan

4,4

3,6

3,5

3,0

2,7

2,8

Ca-na-đa

3,1

4,1

2,3

1,9

1,9

1,7

Thụy Sỹ

1,9

2,6

2,1

1,7

1,5

1,3

Nhật Bản

3,1

1,8

1,7

1,4

1,3

1,2

Đan Mạch

1,5

2,2

1,1

0,9

1,2

1,2

Phần Lan

1,7

1,7

1,7

1,1

1,2

1,2

Thái Lan

1,0

0,7

0,6

1,0

1,1

1,8

Áo

1,2

2,1

1,4

1,2

1,1

0,7

Đài Loan

1,0

1,1

1,0

1,2

0,8

0,9

Italia

1,0

0,8

0,7

0,6

0,7

0,5

Vương quốc NaUy

0,6

0,7

0,6

0,6

0,7

0,7

Xin-ga-po

1,1

0,8

0,7

0,7

0,6

0,8

Bỉ

1,0

1,0

0,9

0,8

0,6

0,6

Malaisia

0,5

0,6

0,4

0,7

0,5

0,8

Niu-zi-lân

1,1

0,7

0,6

0,5

0,5

0,6

Các nước khác

7,8

4,9

5,4

5,2

5,4

7,9

Mùa du khách quốc tế thường tập trung cao ở những tháng đầu năm (Tết âm lịch của nguời phuơng Đông) và những tháng cuối năm (rơi vào kỳ nghỉ Đông), thể hiện qua biểu đồ số lượt khách quốc tế theo tháng qua 5 năm 2008-2012 như sau:

Để đạt được mục tiêu của ngành du lịch trong năm 2012 và hướng đến sự kiện thành phố Phan Thiết được công nhận là đô thị du lịch trong những năm tiếp theo, phát triển của ngành phải gắn với bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo đảm phát triển bền vững, nâng cao chất lượng du lịch, dịch vụ nhằm thu hút du khách, kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu nhất là đối với du khách quốc tế. Gắn với du lịch là sản phẩm du lịch, do vậy tỉnh ta đang phấn đấu nâng cao sản phẩm du lịch, đa dạng cả về số lượng và chất lượng, đồng thời tạo nhiều sản phẩm du lịch giải quyết nhu cầu chi tiêu du khách trong nước và nước ngoài phong phú hơn. Một số chỉ tiêu chủ yếu về chất lượng như hệ số buồng, giường cho thấy năm sau cao hơn năm trước, song việc khai thác sử dụng buồng giường chưa hết công suất, còn nhiều hạn chế so với tiềm năng du lịch của tỉnh. Có thể thấy qua các năm như sau:

+ Tổng số buồng: năm 2007 là 7.028 thì năm 2012 nâng lên có 9.875 buồng bình quân hàng năm tăng 7,04%.

+ Tổng số giường: năm 2007 là 12.209 thì năm 2012 nâng lên có 19.119 giường, bình quân hàng năm tăng 9,38%.

+ Hệ số sử dụng buồng: năm 2007 được 55,89% thì năm 2012 nâng lên 57,47%.

+ Hệ số sử dụng giường: năm 2007 được 51,53% thì năm 2012 nâng lên 56,35%.

+ Hệ số ngày lưu trú (độ dài ngày lưu trú bình quân một lượt khách): năm 2007 được 1,65 ngày/lượt khách thì năm 2012 đạt 1,75 ngày/lượt khách. Khách quốc tế năm 2007 được 2,7 ngày/lượt khách thì năm 2012 nâng lên 3,26 ngày/lượt khách. Khách trong nước năm 2007 được 1,51 ngày/lượt khách thì năm 2012 nâng lên 1,53 ngày/lượt khách. Mức độ tăng hệ số ngày lưu trú chỉ mới tập trung ở khách quốc tế, còn khách trong nước mức tăng khiêm tốn chưa khai thác được nhiều.

 

 Đầu trang | Trang trước | Tiếp theo