IV. CÁC ĐỀ XUẤT VỀ CHÍNH SÁCH VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM CẢI THIỆN MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ BÌNH THUẬN TRONG THỜI GIAN ĐẾN
1. Ý kiến đề xuất từ doanh nghiệp.
- Nhu cầu trong môi trường đầu tư từ các doanh nghiệp đề xuất
Để đưa ra những quyết định, chính sách hợp lý nhằm cải thiện môi trường đầu tư tại địa phương, cần phải biết được nhu cầu từ phía doanh nghiệp như thế nào?. Trong quá trình điều tra, đã thu thập được nhiều ý kiến phản hồi của các DN về những vấn đề cần được tháo gỡ như vốn, cơ sở hạ tầng, chính sách vĩ mô, thuế thu nhập…. Qua đó, ta thấy được những nhu cầu, những khó khăn mà các DN đang gặp phải; từ đó giúp các cấp quản lý nhà nước tìm ra hướng giải quyết hợp lý, hợp tình tạo điều kiện cho sự phát triển của các DN nói riêng và sự phát triển chung của địa phương.
Bảng số liệu về những nhu cầu trong môi trường đầu tư từ các doanh nghiệp đề xuất :
|
Trong tæng sè |
||
quan träng nhÊt |
quan träng thø hai |
quan träng thø ba |
|
a) Loại bỏ hoặc hạn chế các thủ tục quan lieu |
61,8 |
18,6 |
19,6 |
b) Hỗ trợ đất đai/ nhà xưởng |
28,1 |
51,7 |
20,2 |
c) Hỗ trợ cơ sở hạ tầng |
38,7 |
31,1 |
30,2 |
d) Giúp tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn |
43,1 |
36,8 |
20,1 |
e) Hạn chế cạnh tranh từ hàng nhập khẩu |
0,0 |
33,3 |
66,7 |
f) Nhập khẩu các đầu vào tự do hơn |
10,0 |
80,0 |
10,0 |
g) Hỗ trợ cung ứng nguyên vật liệu |
16,3 |
48,8 |
34,9 |
h) Hỗ trợ nghiên cứu và phát triển kỹ thuật |
18,2 |
59,1 |
22,7 |
i) Cải thiện các phương tiện đào tạo cho người lao động |
11,9 |
39,0 |
49,2 |
j) Hỗ trợ/đẩy mạnh xuất khẩu |
15,8 |
42,1 |
42,1 |
k) Cụ thể hóa các chính sách dài hạn của Chính phủ |
16,0 |
40,7 |
43,2 |
l) Hỗ trợ đầu tư cho DN nhỏ và vừa |
29,4 |
20,0 |
50,6 |
Dựa trên ý kiến của các doanh nghiệp, cho thấy các nhu cầu về loại bỏ các thủ tục hành chính quan liêu (61,8%), cải thiện kết cấu hạ tầng (38,7%), giúp tiếp cận tín dụng dễ dàng hơn (43,1%), hỗ trợ đầu tư DN nhỏ và vừa (29,4%) là các vấn đề các doanh nghiệp quan tâm nhất. Quan trọng thứ hai là các vấn đề về nhập khẩu đầu vào (80%), hỗ trợ nghiên cứu và phát triển kỹ thuật (59,1%), giải quyết đất đai - nhà xưởng (51,7%), đáp ứng được nhu cầu về nguồn nguyên vật liệu tại chỗ (48,8%), hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu (42,1%). Do thế mạnh của địa phương là chế biến hải sản xuất khẩu, nhưng thời gian gần đây liên tục bị cạnh tranh trong thu mua và sản lượng đạt chất lượng không cao nên nguyên liệu đầu vào gặp khá nhiều khó khăn. Trong khi đó, các mặt hàng xuất khẩu khác như hàng may mặc, sản phẩm kim loại đều phải nhập nguồn nguyên liệu từ nước ngoài, do trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu.
+ Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả của các dịch vụ
- Trong năm qua, địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng, đường giao thông được nâng cấp, hạ tầng kỹ thuật viễn thông được tập trung đầu tư phát triển, vùng phủ sóng di động, các mạng dịch vụ được mở rộng, chất lượng được cải thiện tốt hơn, công tác giáo dục, đào tạo hướng nghiệp và dạy nghề tiếp tục phát triển, cùng với công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông, các cơ sở dạy nghề tư nhân đã góp phần đào tạo nâng cao kiến thức, kỹ thuật tay nghề cho người lao động. Tăng cường liên kết với các trường Cao đẳng, Đại học trong nước đào tạo một số ngành nghề phục vụ cơ bản cho mục tiêu phát triển của địa phương.
- Nhà nước cũng ban hành nhiều chính sách ưu đãi trong việc vay vốn, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, phối hợp giữa các cơ quan chức năng tạo điều kiện hỗ trợ cho các DN nhỏ và vừa. Công tác xúc tiến thương mại được tổ chức hàng năm, đẩy mạnh kêu gọi đầu tư tại các khu/cụm công nghiệp đóng trên địa bàn. Công tác phổ biến thông tin thị trường trên các phương tiện thông tin đại chúng được tổ chức thường xuyên, thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy vậy, qua điều tra cho thấy mức độ hài lòng của các DN chưa cao. Chất lượng đường giao thông được đánh giá tốt giảm 6,8% so với năm trước, chất lượng giáo dục đào tạo tốt giảm 2,3% so với năm trước, phát triển các khu/cụm công nghiệp giảm 3,1% so với năm trước. Công tác xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm giảm 1,7% so với năm trước, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tốt giảm 2,9% so với năm trước.
Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư của tỉnh nhà không nhiều, trong khi vốn đầu tư của cấp trên về cho địa phương thấp không đủ đáp ứng nhu cầu phát triển của tỉnh. Mặc dù nằm trên tuyến quốc lộ giao thông chính của cả nước, nhưng do cách xa cảng biển, sân bay nên chi phí vận chuyển cao, mà tại địa phương thì lại không có các yếu tố thuận lợi này. Vì thế công tác kêu gọi đầu tư cũng còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, do các trường đại học uy tín đều tập trung ở các thành phố lớn nên nguồn nhân lực ra trường thường chọn ở lại nơi đó để tìm kiếm cơ hội, trong khi nguồn nhân lực đào tạo tại chỗ không được các DN tin tưởng nhiều, dẫn đến sự thiếu hụt nhân lực chất lượng cao tại địa phương.
Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả về Đường giao thông, Điện thoại, Giáo dục đào tạo như sau:
|
Đường giao thông |
Điện thoại |
Giáo dục đào tạo |
Thông tin kinh doanh (về các thị trường tiềm năng) |
||||
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
|
Rất kém, kém |
17,2 |
17,4 |
1,7 |
4,0 |
5,7 |
8,9 |
18,9 |
22,0 |
Trung bình |
48,0 |
54,3 |
24,6 |
24,9 |
41,1 |
40,6 |
46,3 |
45,1 |
Tốt, rất tốt |
34,0 |
27,1 |
73,7 |
70,3 |
43,7 |
41,4 |
27,1 |
24,3 |
Không biết |
0,8 |
1,1 |
0,0 |
0,9 |
9,5 |
9,1 |
7,7 |
8,6 |
Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả Tư vấn về thông tin pháp luật, Phát triển cơ sở hạ tầng như sau:
|
Tư vấn về thông tin pháp luật |
Phát triển cơ sở hạ tầng |
Phát triển khu/cụm công nghiệp cho doanh nghiệp vừa và nhỏ |
Phát triển đất nông nghiệp sang phát triển sản xuất kinh doanh |
||||
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
|
Rất kém, kém |
19,5 |
22,9 |
20,5 |
21,7 |
24,0 |
28,9 |
15,7 |
19,7 |
Trung bình |
43,7 |
44,3 |
42,6 |
44,9 |
39,4 |
37,4 |
42,3 |
40,6 |
Tốt, rất tốt |
28,3 |
25,4 |
29,2 |
26,9 |
19,1 |
16,0 |
19,7 |
17,7 |
Không biết |
8,5 |
7,4 |
7,7 |
6,6 |
17,5 |
17,7 |
22,3 |
22,0 |
Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả các dịch vụ Hỗ trợ tuyển dụng và môi giới lao động, Xúc tiến thương mại như sau:
|
Hỗ trợ tuyển dụng và môi giới lao động |
Xúc tiến thương mại và triển lãm thương mại |
Công nghệ và các dịch vụ liên quan đến công nghệ |
|||
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
|
Rất kém, kém |
17,7 |
23,7 |
17,1 |
23,1 |
15,4 |
19,4 |
Trung bình |
47,7 |
47,7 |
41,7 |
40,9 |
43,7 |
43,7 |
Tốt, rất tốt |
17,5 |
14,3 |
18,6 |
16,9 |
19,8 |
16,6 |
Không biết |
17,1 |
14,3 |
22,6 |
19,1 |
21,1 |
20,3 |
+ Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả các dịch vụ khác
Các lĩnh vực khác như cổ phần hoá DNNN; hỗ trợ tìm đối tác kinh doanh; thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tiếp cận vốn từ chi nhánh NH thương mại; đào tạo nghề cho người lao động. Đây là vấn đề cần chú trọng trong thời gian tới
Đánh giá của Doanh nghiệp về chất lượng và hiệu quả các dịch vụ Cổ phần hoá các DNNN địa phương, Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh như sau:
|
Cổ phần hoá các DNNN địa phương |
Hỗ trợ tìm kiếm đối tác kinh doanh |
Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài |
Đào tạo nghề cho người lao động |
||||
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
Năm 2012 |
Năm 2013 |
|
Rất kém, kém |
14,6 |
18,3 |
24,9 |
30,0 |
24,2 |
29,7 |
19,1 |
24,6 |
Trung bình |
38,0 |
40,0 |
40,0 |
40,6 |
33,4 |
33,7 |
47,4 |
50,0 |
Tốt, rất tốt |
20,2 |
15,1 |
13,2 |
11,7 |
14,3 |
11,1 |
22,3 |
14,6 |
Không biết |
27,2 |
26,6 |
21,9 |
17,7 |
28,1 |
25,4 |
11,2 |
10,9 |
2. Một số giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư trong thời gian đến.
Từ những kết quả điều tra và qua ý kiến phản hồi của các DN, chính quyền các cấp của tỉnh nhà cần tiếp tục có những định hướng, chính sách phát triển hiệu quả hơn để giúp cho DN phát triển, cũng như thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội. Dưới đây là một số giải pháp như sau:
a) Hoàn thiện chính sách cải cách hành chính:
- Tiếp tục đẩy mạnh chính sách cải cách hành chính, giảm bớt giấy phép, thời gian cũng như chi phí gia nhập thị trường cho tất cả các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài; không hạn chế về quy mô đầu tư và quy mô lao động. Xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội, nguồn lực và thông tin thị trường, nhất là giữa DN nhà nước và DN ngoài nhà nước.
- Tăng cường kiểm tra thực hiện công tác cải cách hành chính tại các cơ quan chức năng các cấp, đặc biệt ở cơ quan quản lý hành chính cấp xã, phường. Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước của tỉnh trong hoạt động quản lý đầu tư; phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cơ quan trong việc giải quyết các vấn đề phát sinh.
- Kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm khắc những trường hợp cán bộ, công chức thụ lý hồ sơ quan liêu, cố tình nhũng nhiễu, gây khó khăn cho nhà đầu tư.
- Tăng cường áp dụng tin học hóa trong quản lý, nghiên cứu đầu tư xây dựng phần mềm thông tin doanh nghiệp, cung cấp thông tin kịp thời, chuẩn xác, đồng bộ và đối thoại qua mạng tin học với các nhà đầu tư.
b) Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng gắn liền với an sinh xã hội:
- Công khai, minh bạch hiện trạng quỹ đất ở vùng quy hoạch để các nhà đầu tư được biết. Qua đó, có những vướng mắc gì thì có thể giải thích, hướng dẫn để nhà đầu tư xác định trước được tình hình nơi mình sẽ đầu tư.
- Nói đến đầu tư là chúng ta liên tưởng đến ngay công tác bồi thường giải phóng mặt bằng, đây là một công tác cực kỳ phức tạp liên quan đến quyền lợi của mọi người có đất trong quy hoạch. Để thực hiện tốt vấn đề này cần có sự lãnh đạo đồng bộ, phối hợp công tác của chính quyền các cấp, các ngành, khối mặt trận đoàn thể, các nhà đầu tư và đặc biệt là phải có sự tham gia của người dân. Vì thế cần có sự phối hợp chặt chẽ cùng với việc tuyên truyền công khai chủ chương chính sách để cho người dân hiểu rõ chủ chương xây dựng và phát triển trong khu vực quy hoạch, đồng thời để người dân hiểu rõ các chính sách về đất đai của chính phủ đến sự vận dụng trong chính sách của tỉnh. Nếu làm tốt công tác này thì xem như việc phát triển của các vùng quy hoạch đã đi được hơn nửa chặng đường.
- Đầu tư mới hệ thống giao thông trọng điểm, không đầu tư dàn trải dẫn đến thiếu hụt vốn, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu/cụm công nghiệp nhằm thu hút các nhà đầu tư nhanh hơn, thời gian đi vào hoạt động sản xuất sẽ được rút ngắn. Hệ thống điện, nước, thông tin liên lạc phải đảm bảo thông suốt.
- Phát triển các vùng nguyên liệu tại chỗ, các ngành công nghiệp phụ trợ cho hoạt động sản xuất tạo điều kiện đáp ứng tốt nhất cho DN.
- Hỗ trợ nghiên cứu, phát triển và đưa ứng dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại vào quy trình sản xuất của các DN.
- Song song đó, xây dựng hệ thống hạ tầng dịch vụ đáp ứng cho nhu cầu của người lao động như ăn ở, vui chơi giải trí, khám chữa bệnh,…. Vì thực tế cho thấy, ở các khu/cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh đến nay vẫn chưa có một khu nhà nào được đầu tư xây dựng cho người lao động ở xa nghỉ ngơi, sinh sống. Điều đó sẽ gây nhiều khó khăn cho người lao động khi chi phí thuê nhà trọ, điện nước, thực phẩm đều tăng cao. Nhân dân ta có câu “An cư lạc nghiệp”, đây chính là điều giúp người lao động an tâm ở lại làm việc và góp phần vào sự phát triển chung của địa phương.
c) Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư:
- Tăng cường kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá hình ảnh, thế mạnh và con người Bình Thuận đến các nhà đầu tư, du khách nội địa cũng như là quốc tế.
- Công tác xúc tiến thương mại phải mang lại hiệu quả rõ rệt, các DN giới thiệu phải có thương hiệu nhất định, không tổ chức đi xô bồ, ai có đóng góp chi phí thì được tham gia.
- Kêu gọi đầu tư phải phù hợp với vị trí địa lý, thế mạnh của địa phương, nguồn nhân lực tại chỗ đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư. Từ đó tạo được sự phát triển bền vững cho nhà đầu tư, cũng như tạo việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống dân cư, giảm tỷ lệ thất nghiệp tại địa phương.
- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng các trung tâm hỗ trợ DN như: cung cấp thông tin về thị trường, khách hàng, hỗ trợ xúc tiến thương mại, giới thiệu và tư vấn về các nguồn vốn đầu tư và các đối tác kinh doanh, đầu tư để doanh nghiệp lựa chọn.
- Song song đó, chính quyền địa phương phải tổ chức gặp gỡ trực tiếp với nhà đầu tư nhằm trao đổi, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, nhu cầu của họ. Từ đó, đưa ra những quyết định hợp lý, tạo điều kiện cho nhà đầu tư an tâm phát triển. Trong quá trình triển khai đầu tư, các cơ quan chức năng có liên quan cũng tiếp xúc, gặp gỡ với nhà đầu tư để tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc xảy ra trong quá trình thực hiện.
- Điều quan trọng nữa là các nhà đầu tư phải thực sự muốn đầu tư tại địa phương, thực lực tài chính ổn định. Tránh chọn phải những nhà đầu tư không thực chất, tài chính không rõ ràng, có mục đích đầu cơ kiếm lợi, nhất là đối với lĩnh vực đất đai.
d) Một số giải pháp giúp đỡ doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng dễ dàng hơn:
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của quỹ bảo lãnh tín dụng, giúp DN có thể vay vốn khi gặp khó khăn về tài sản thế chấp. Quỹ bảo lãnh tín dụng có thể bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên để quỹ này hoạt động tốt cần có các quy định rõ ràng về trách nhiệm của quỹ đối với cơ quan tín dụng và doanh nghiệp cũng như làm rõ cơ chế quản lý và điều hành quĩ để tránh tình trạng làm nảy sinh một khâu trung gian giữa DN và ngân hàng trong quá trình thực hiện các giao dịch.
- Ngành ngân hàng nên có một cơ chế phù hợp nhằm tạo điều kiện cho các DN vay vốn, trên thực tế các dự án vay vốn đều phải được thẩm định kỹ càng, vì các ngân hàng đề phòng việc cho vay rồi không thu hồi được. Tuy vậy, nếu khắt khe quá thì DN sẽ không vay được vốn, mặc dù họ thực sự muốn vay vốn để kinh doanh. Trong khi đó, nguồn tiền thì vẫn để ở ngân hàng, đó là một điều rất lãng phí.
- Cần phải có sự điều chỉnh chính sách về tài sản thế chấp đối với các khoản vay. Hiện nay, các ngân hàng đã áp dụng cho các doanh nghiệp dùng các tài sản hình thành từ các khoản vay để làm tài sản thế chấp. Tuy nhiên, trong thời điểm khó khăn việc hòa vốn cũng khiến DN cảm thấy mừng rồi, nhưng trong quy định cho vay vốn thì ngân hàng yêu cầu DN phải có lãi nên đối với các DN nhỏ và vừa thì càng khó khăn hơn.
e) Chính sách thuế:
- Chính sách thuế cần được đơn giản hóa và loại bỏ dần các trường hợp miễn giảm tiến tới thống nhất hệ thống thuế đối với các loại hình doanh nghiệp. Vì trên thực tế có những doanh nghiệp kinh doanh ở ngành này, mặc dù lợi nhuận đạt thấp nhưng vẫn phải đóng thuế. Trong khi đó, có những DN thu được lợi nhuận cao nhưng không phải đóng thuế, lý do là DN này kinh doanh ở ngành được miễn giảm. Nếu có sự ưu đãi dễ dẫn đến các hiện tượng tiêu cực trong nền kinh tế và tạo ra sự phân biệt đối xử giữa những người nộp thuế từ đó tạo ra cảm giác là thuế không công bằng. Hơn nữa một số nghiên cứu còn cho rằng các ưu đãi về thuế đã không có tác dụng như mong muốn mà đôi khi có tác dụng ngược lại, giảm tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy mà xu hướng của thế giới hiện nay là loại bỏ dần các chính sách ưu đãi về thuế cho các hoạt động kinh tế cụ thể và tiến tới sử dụng những thuế suất thấp hơn trên mọi lĩnh vực đối với tất cả các doanh nghiệp. Điều này có tác dụng khuyến khích cả đầu tư trong nước lẫn đầu tư nước ngoài.
- Hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế giá trị gia tăng, đặc biệt là cải tiến chính sách về hoàn thuế giá trị gia tăng cho các DN trong toàn bộ nền kinh tế, vì hoàn thuế chậm sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn của các DN vốn đã rất nhỏ bé và thiếu, gây cản trở công việc kinh doanh của các DN này. Siết chặt công tác chống thất thu thuế, khuyến khích DN chủ động nộp thuế đầy đủ.
- Các chính sách thuế phù hợp với đặc thù và điều kiện của DN và cần dành những ưu đãi để khuyến khích các chủ thể kinh tế hướng theo mục tiêu mà Nhà nước dự định. Những ưu đãi về thuế phải nằm trong danh mục các ngành nghề được khuyến khích phát triển, hoặc khuyến khích các DN đầu tư vào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc miền núi ít người…
- Cương quyết xử lý những trường hợp cố tình trốn thuế, những trường hợp bao che của cán bộ quản lý để DN trốn thuế. Những trường hợp cần thiết có thể đưa ra xử lý trước pháp luật. Vì vậy Luật Thuế cần phải tăng cường bổ sung những điều khoản quy định chặt chẽ hơn, nghiêm khắc hơn để DN thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
f) Công tác phát triển nguồn nhân lực:
- Tăng cường quản lý Nhà nước về công tác đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, hạn chế việc đào tạo tràn lan, thiếu tính chuyên nghiệp, không phù hợp với sự phát triển hiện nay.
- Định hướng các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp nghề của địa phương đào tạo chuyên sâu nguồn nhân lực theo các ngành phát triển đặc thù của địa phương, tránh tập trung đào tạo các ngành ít liên quan hoặc nhu cầu thấp so với thực tế của địa phương. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, chủ động liên kết với các DN có nhu cầu tuyển dụng lao động, để đáp ứng được nhu cầu tìm việc của sinh viên khi ra trường.
- Công tác đào tạo nghề phải gắn với thực tiễn sản xuất, nâng cao trình độ cho những lao động tay nghề còn yếu. Phải có sự phối hợp đồng bộ giữa cơ sở đào tạo nghề với các DN, mở các lớp hướng dẫn, nâng cao kỹ năng, chất lượng, năng lực của người lao động; trong đó phải xây dựng, bồi đắp lòng yêu nghề của người lao động.
- Có cơ chế chính sách tiền lương hợp lý, các chế độ đãi ngộ, bảo hiểm liên quan đến quyền lợi của người lao động phải được đảm bảo, góp phần giúp cho người lao động an tâm làm việc. Các cơ quan chức năng có liên quan có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc sử dụng lao động đúng theo quy định của pháp luật, giải quyết hợp lý khi có xảy ra tranh chấp hợp đồng lao động.
Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo tỉnh nhà, môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh của Bình Thuận đã cải thiện đáng kể, thể hiện rõ là trong điều tra PCI của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tỉnh nhà đã thăng hạng đứng ở vị thứ 24 toàn quốc. Tình hình đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, giải quyết giấy tờ nhanh gọn, rút ngắn thời gian cấp giấy phép, cơ sở hạ tầng tiếp tục được cải thiện, lãi suất ngân hàng giảm, nguồn nhân lực ngày càng nâng dần chất lượng, công tác xúc tiến thương mại được đẩy mạnh, tăng cường quảng bá, kêu gọi đầu tư. Những yếu tố trên đã góp phần giúp cho thứ hạng về năng lực cạnh tranh tăng đáng kể, kinh tế dần hồi phục.
Tuy đã có những chuyển biến tích cực, nhưng môi trường đầu tư tại Bình Thuận cần phải có nhiều chuyển biến tích cực hơn nữa. Công tác cải cách hành chính phải làm tốt hơn nữa, việc vận hành chính sách phải đồng bộ, tạo sự thông thoáng cho các nhà đầu tư. Hệ thống ngân hàng cải thiện hơn nữa việc cho vay vốn, quy định đưa ra phải hợp lý, tính đến điều kiện phát triển khó khăn của DN mà có những phương pháp áp dụng hài hòa, phù hợp với thực tế. Công tác xúc tiến thương mại, kêu gọi đầu tư phải thực sự mang lại hiệu quả. Vùng quy hoạch đầu tư phải sạch, đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư, phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương.
Để có được sự chuyển biến như vậy thì cần phải có sự nỗ lực từ các bên như: chính quyền, nhân dân và nhà đầu tư. Chính quyền có trách nhiệm ban hành cơ chế chính sách và khuôn khổ pháp lý, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Còn nhân dân phải hiểu rõ, đồng thuận với chính sách quy hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Còn nhà đầu tư khi tham gia đầu tư phải thực hiện đầy đủ các cam kết khi đăng ký đầu tư, tuân thủ và thực hiện các quy định pháp luật do Nhà nước ban hành. Có như thế thì môi trường đầu tư sản xuất kinh doanh của Bình Thuận sẽ ngày phát triển mạnh mẽ và bền vững.