[1][2][3][4][5][6][7][8][9]

Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 ước đạt 229,4 triệu USD, đạt 109,2% kế hoạch, tăng 23,7% so với năm trước, trong đó:

- Xuất khẩu hàng hóa đạt 168,7 triệu USD, đạt 99,2% KH, tăng 22,8% so năm trước.

- Xuất khẩu dịch vụ đạt 60,7 triệu USD, đạt 151,9% KH, tăng 26,4% so với năm trước.

Trong xuất khẩu hàng hoá, nhóm hàng thuỷ sản đạt 76,1 triệu USD (tăng 28,1% so với năm trước), hàng nông sản đạt 35,8 triệu USD (tăng 9,7%), hàng hoá khác 56,8 triệu USD (tăng 25,3% so với năm trước); với một số mặt hàng chủ yếu: hải sản đông 15.506 tấn, hải sản khô 1.008 tấn; quả thanh long 31.651 tấn (tăng 20,8%), hàng dệt may 45,2 triệu USD (tăng 36,8% so với năm trước).

Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn (chiếm 66,6% trong tổng kim ngạch xuất khẩu trực tiếp), tập trung nhiều ở thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan. Kế đến là thị trường Châu Âu (chiếm 27,7%), tập trung chủ yếu ở Tây Âu và Nam Âu; thị trường Châu Mỹ (chiếm 4,7% trong tổng kim ngạch xuất trực tiếp).

Nhập khẩu cả năm ước đạt 42,3 triệu USD (bằng 57,8% so với năm trước).

Vận tải hàng hoá, hành khách tiếp tục ổn định. Ước năm 2010 khối lượng luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 283 triệu tấnkm (tăng 37,9% so với năm trước), luân chuyển hàng hoá đường thủy 3.031 ngàn tấnkm (giảm 32,8%); luân chuyển hành khách đường bộ đạt 400,8 triệu lượt ngườikm (giảm 15,4% so với năm trước), luân chuyển hành khách đường thuỷ đạt 3.817 ngàn lượt ngườikm (giảm 5%). Hoạt động các tuyến xe buýt, tuyến vận tải biển và vận tải đường sắt (với các đôi tàu SPT1, SPT2. PT3, PT4) duy trì bình thường.

Hoạt động bưu chính - viễn thông tiếp tục tăng trưởng. Dự ước đến cuối năm số thuê bao điện thoại cố định đạt 19,5 thuê bao/100 dân; thuê bao di động 108 thuê bao/100 dân; số thuê bao Internet có 34,4 ngàn thuê bao; tỷ lệ người sử dụng Internet đạt 25%.

Ước thu ngân sách cả năm đạt 7.700 tỷ đồng, đạt 138,5% dự toán năm, tăng 28,4% so với năm trước; trong đó thu thuế, phí và thu khác ngân sách đạt 2.275 tỷ đồng (đạt 116,6% dự toán năm; tăng 22,7% so với năm trước); thu sử dụng đất 350 tỷ đồng (đạt 100% dự toán năm); thu từ dầu thô 5.100 tỷ đồng (đạt 154,6% dự toán, tăng 32,7% so với năm trước); thuế xuất nhập khẩu 45 tỷ đồng (đạt gấp 4,5 lần so với dự toán năm, tăng 40% so với năm trước). Trong thu thuế phí, dự ước các khoản thu tăng, giảm so với năm trước như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 305 tỷ đồng (tăng 9,8% so với năm trước); thu ngoài quốc doanh 520 tỷ đồng (tăng 24%), thu doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài 530 tỷ đồng (tăng 89,6%), các loại phí, lệ phí 172 tỷ đồng (giảm 25,5%), thu xổ số kiến thiết 185 tỷ đồng (tăng 49,2%).

Chi ngân sách cả năm ước đạt 4.003 tỷ đồng (đạt 104,5% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển là 885 tỷ đồng, chi thường xuyên là 2.688 tỷ đồng, chi chương trình mục tiêu Quốc gia và một số nhiệm vụ TW giao là 428 tỷ đồng. Nhìn chung, trong chi ngân sách, đã bám sát theo Nghị quyết HĐND Tỉnh, đảm bảo kịp thời kinh phí dành cho các khoản chi lương, phụ cấp lương, chi trợ cấp Tết, đáp ứng nhu cầu chi tiền lương mới theo Nghị định 28/2010/NĐ-CP ngày 25/3/2010 của Chính phủ; đảm bảo các khoản chi cho con người, chi cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế; giải quyết kịp thời các nhu cầu chi bức xúc trên địa bàn như: chi cứu đói, phòng chống dịch bệnh, khắc phục thiên tai.

Dự ước đến cuối năm, nguồn vốn huy động tại địa phương đạt 8.410 tỷ đồng, tăng 39% so với đầu năm. Dư nợ cho vay đến cuối năm ước đạt 10.812 tỷ đồng, tăng 16% so với đầu năm, trong đó dư nợ  cho vay hỗ trợ lãi suất 782 tỷ đồng, dư nợ cho vay các đối tượng chính sách đạt 1.130 tỷ đồng; dư nợ cho vay phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn đạt 2.103 tỷ đồng, dư nợ cho vay xuất khẩu 336 tỷ đồng; dư nợ cho vay  doanh nghiệp nhỏ và vừa 3.569 tỷ đồng.

Hoạt động văn hoá, nghệ thuật hướng về cơ sở. Trung tâm văn hoá tỉnh đã tổ chức 16 chương trình chương trình văn nghệ quần chúng phục vụ nhân dân. Các huyện, thị xã, thành phố tổ chức Hội diễn nghệ thuật không chuyên trong CNVC-LĐ và tổ chức tốt các hoạt động như: Lễ hội cầu Ngư và Nghinh Ông, Hội diễn nghệ thuật quần chúng.

Công tác gia đình có nhiều cố gắng, đẩy mạnh hoạt động truyền thông phòng, chống bạo lực gia đình và xúc tiến thành lập các Câu lạc bộ gia đình bền vững trên địa bàn tỉnh. Có 51,18% xã, phường, thị trấn có Ban chỉ đạo mô hình phòng, chống bạo lực gia đình (đạt 197% KH); 5,01% thôn, khu phố có Câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững (đạt 109% KH); 28% xã, phường tổ chức hoạt động tuyên truyền giáo dục gia đình (đạt 100% KH) và 28% xã, phường xây dựng kế hoạch công tác gia đình và phòng, chống bạo lực gia đình (đạt 100% KH).

Về hoạt động thể thao thành tích cao: Đã phối hợp đăng cai tổ chức các  giải: Bóng rổ Vô địch Nam, Nữ toàn quốc năm 2010, vô địch xe đạp trẻ toàn quốc, Gofl - Đại hội TDTT toàn quốc.

Chất lượng dạy và học ở các cấp phổ thông được tiếp tục chú trọng, đạt nhiều tiến bộ so với năm học trước, tỷ lệ học sinh yếu kém học lực THCS giảm 3,77%, THPT giảm 0,74%, số học sinh đạt hạnh kiểm tốt, khá ở các cấp học đều tăng. Công tác chuẩn bị cho các kỳ thi tốt nghiệp và tuyển sinh lớp 10 THPT được thực hiện chu đáo, chặt chẽ; nền nếp kỹ cương trong nhà trường được củng cố, ổn định. Tỷ lệ học sinh lớp 5 hoàn thành chương trình cấp tiểu học đạt 99,69% (tăng 0,39% so với năm trước); học sinh lớp 9 được xét công nhận tốt nghiệp THCS đạt 97,74% (tăng 2,30%); tỷ lệ tốt nghiệp Trung học phổ thông đạt 83,75% (tương đương với năm trước); tốt nghiệp bổ túc THPT đạt 31,05% (tăng 14,68%). Tỷ lệ học sinh hoàn thành chương trình Tiểu học xét tuyển vào lớp 6 đạt 99,03% (tăng 0,78% so với năm trước); tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS vào học lớp 10 đạt 83,27% KH. Tỷ lệ học sinh bỏ học là 1,9% (giảm 0,09% so với năm học trước).

Tiếp tục triển khai thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, gắn liền với các cuộc vận động khác trong ngành Giáo dục – Đào tạo và phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nghiêm túc, các đơn vị trường học đã có những chuyển biến đáng kể về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nhà giáo. Chất lượng công tác, chất lượng giờ dạy được nâng lên, nền nếp trường học được giữ vững.

Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố; đến nay có 76/127 trạm y tế xã, phường có bác sĩ; bình quân có 5,0 bác sĩ/1 vạn dân. Thực hiện Đề án đạt Chuẩn Quốc gia y tế xã (2003-2010), đến nay toàn tỉnh có 108/127 xã, phường, thị trấn đạt Chuẩn Quốc gia y tế.

Ngành Y tế đã phối hợp với các địa phương triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch, giám sát chặt chẽ và thường xuyên các bệnh truyền nhiễm như cúm A H1N1, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh viêm đường hô hấp cấp nặng do virus cúm A H5N1. Tỷ lệ người mắc bệnh sốt xuất huyết tăng, mắc sốt rét giảm so với năm trước. Dự ước cả năm, tỷ lệ người mắc bệnh sốt xuất huyết là 1,44%o (năm trước 0,79%o); mắc bệnh sốt rét 0,32%o (năm trước 0,35%o). Việc phòng chống các bệnh xã hội (phong, mắt, lao phổi) được duy trì đều; 100% bệnh nhân phong tàn phế được quan tâm chăm sóc; số người mắc bệnh lao được theo dõi quản lý điều trị từ tuyến cơ sở. Công tác chăm sóc sức khoẻ sinh sản, phòng chống HIV/AIDS được thực hiện thường xuyên, nề nếp. ng tác kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm ở các cơ sở duy trì thường xuyên, đã thanh tra 5.059/5.395 cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ ăn uống. Đã duy trì và triển khai có kết quả các hoạt động cân trẻ, thực hành dinh dưỡng, tập huấn mạng lưới cộng tác viên kỹ năng phòng chống suy dinh dưỡng. Dự ước năm 2010 tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ dưới 5 tuổi còn 14% (năm trước 15%); tỷ lệ trẻ sinh ra dưới 2.500g là 2,6% (năm trước 2,1%). Công tác khám chữa bệnh đáp ứng được nhiệm vụ, nhất là khám chữa bệnh người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ dưới 6 tuổi ở các tuyến; công suất sử dụng giường bệnh đạt trên 95%. Công tác xã hội hoá hoạt động y tế được đẩy mạnh.

Công tác dân số KHH gia đình duy trì ổn định; ước cả năm có 20.250 cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại (đặt vòng, triệt sản); 51.550 cặp vợ chồng thực hiện các biện pháp tránh thai khác.

Trong năm giải quyết việc làm cho 23 ngàn người (đạt 100% KH), trong đó: xuất khẩu lao động 30 người (đạt 10% KH), cho vay vốn Quỹ quốc gia về việc làm 2.500 người (đạt 100% KH); trong đó lĩnh vực nông lâm nghiệp 12.005 lao động; công nghiệp – xây dựng 3.932 lao động, dịch vụ 7.063 lao động. Hoàn thành việc tổ chức Chợ việc làm tại 08 cụm xã của 7 huyện, thị xã, thành phố (trừ Hàm Thuận Nam, Tuy Phong, Phú Quý) thu hút khoảng 300 – 500 lượt  người/cụm xã tham gia Chợ Việc làm, trong đó số người đăng ký tuyển dụng, tuyển sinh chiếm khoảng 15%. Các cơ sở dạy nghề đã tổ chức đào tạo và bồi dưỡng nghề cho 9.000 người (đạt 90% kế hoạch năm), chủ yếu tập trung đào tạo nghề thuyền máy trưởng hạng 5, dịch vụ khách sạn nhà hàng, may công nghiệp, trồng chăm sóc thanh long, trồng và khai thác cây cao su.

Tiếp tục triển khai thực hiện chương trình xây dựng và phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số; trong năm đã tiếp tục thực hiện chương trình đầu tư ứng trước giống, vật tư và bao tiêu sản phẩm cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số. Trong năm đã triển khai hợp đồng đầu tư ứng trước bắp lai và lúa nước với 1.473 hộ/2.819 ha với giá trị đầu tư ứng trước trên 8 tỷ đồng; tổ chức thu mua 5.000 tấn bắp và 450 tấn mủ cao su với tổng trị giá 21,2 tỷ đồng. Đã tập kết cung ứng xuống các cửa hàng, đại lý 814 tấn phân bón; 23 tấn thuốc bảo vệ thực vật; 39,2 tấn bắp giống; 41,2 tấn lúa giống; 57 tấn gạo. Đã tổ chức 12 lớp tập huấn kỹ thuật trồng lúa nước, bắp lai, quy trình cạo mủ cao su cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số.

[1][2][3][4][5][6][7][8][9]