[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 ]

 

 

 

 

b) Đặc điểm và ý kiến đánh giá của khách du lịch

Kết quả thăm dò ý kiến nhận xét, đánh giá của du khách trong nước và quốc tế cùng với những đáp ứng được yêu cầu của khách được thể hiện như sau:

a) Đặc điểm của du khách:

- Đặc điểm cơ cấu du khách trong nước

Du khách trong nước chủ yếu vẫn nghiêng về giới nam đi nhiều hơn, tuy nhiên trong nay có chuyển biến cơ cấu nam giảm xuống đáng kể và ngược lại nữ tăng, thể hiện như sau: năm 2006 du khách nam chiếm 63,63%, nữ chiếm 36,37%; năm 2007 du khách nam chiếm 64,82%, nữ chiếm 35,18%; năm 2008 du khách nam chiếm 65,75%, nữ chiếm 34,25%; năm 2009 du khách nam chiếm 63,67%, nữ chiếm 34,69%; năm 2010 du khách nam chiếm 65,31%, nữ chiếm 34,69%; năm 2011 du khách nam chiếm 55,57%, nữ chiếm 44,43%.

Các lứa tuổi đi du lịch thường là từ tuổi từ 25 đến 34 tuổi đây là nhóm tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số khách du lịch, có sức khỏe làm việc và có nhiều ham muốn du lịch mới, lạ, nhiều loại hình giải trí: các năm 2006-2009 ở mức khoảng 35-36% thì trong năm 2010 và 2011 tỷ lệ lên khá cao (trên 41%); Mức có tỷ lệ thấp một chút là nhóm tuổi 35 đến 44, năm nay có cơ cấu tăng: năm 2009 chiếm 30,9%, năm 2010 giảm còn 26,5% thì năm 2011 tăng lên 33,5%; nhóm tuổi từ 45 đến 54 giữ mức trên 11%: năm 2006 chiếm 13,5%, năm 2010 còn 9,46% và năm 2011 tăng lên lại 11,1% và thấp hơn một chút là nhóm tuổi 15 đến 24 có cơ cấu nhích lên: năm 2007 chiếm tỷ lệ 7,66%, năm 2008 chiếm tỷ lệ 5,92%, năm 2009 chiếm tỷ lệ 9,77% và năm 2011 chiếm tỷ lệ 8,93%. Còn các nhóm còn lại trên 55 chiếm tỷ lệ thấp (dưới 5%). Qua số liệu trên cho thấy các khu du lịch cũng cần bố trí nhiều loại hình giải trí phù hợp cho từng lứa tuổi.

Cơ cấu nghề nghiệp của du khách trong nước đến tỉnh ta trong các năm qua chủ yếu công chức, viên chức Nhà nước: năm 2006 chiếm tỷ lệ 42,4% và tỷ lệ này cũng giảm trong những năm sau xuống mức 30-31% (năm 2007 chiếm tỷ lệ 30,64%, năm 2008 chiếm tỷ lệ 32,75%, năm 2009 chiếm tỷ lệ 29,5%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 30,31%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 31,57%), sau đó các nhà doanh nghiệp giữ mức khoảng 20-22% (năm 2007 chiếm tỷ lệ 20,85%, năm 2008 chiếm tỷ lệ 20,83%, năm 2009 chiếm tỷ lệ 22,67%, năm 2010 chiếm tỷ lệ 19,92%, năm 2011 chiếm tỷ lệ 20,29%); các đơn vị kinh tế tổ chức cho công nhân đi thăm quan, nghỉ dưỡng có xu hướng tăng từ 11,6% năm 2006 lên 16,6% năm 2010 và năm 2011 lại giảm xuống mức 11,5%; nhóm hưu trí có tăng lên đáng kể: những năm trước khoảng 3-4% thì năm nay tăng cơ cấu khá (7,2%); nhóm nông dân ở mức thấp nhất khoảng 1%.

- Đặc điểm cơ cấu du khách quốc tế

Cũng như du khách trong nước, du khách quốc tế nghiêng về giới nam đi nhiều hơn và trong năm nay cơ cấu nữ có tăng: năm 2010 cơ cấu du khách nam chiếm 62%, nữ chiếm 38% thì năm 2011 cơ cấu du khách nam giảm 58,67%, nữ nâng lên 41,33%.

Đối với khách quốc tế lứa tuổi này đến Bình Thuận chiếm tỷ lệ cao nhất là lứa tuổi từ 25 đến 34 dao động qua các năm chiếm tỷ lệ 33-37% (năm 2008 chiếm 37,67%, năm 2009 chiếm 35,8%, năm 2010 chiếm 34,25% và năm 2011 chiếm 33,67%). Sau đó là lứa tuổi từ 35 đến 44 chiếm tỷ lệ tương đối cao dao động từ 28-31% (năm 2008 chiếm 28,67%, năm 2009 chiếm 31,8%, năm 2010 chiếm 28,75% và năm 2011 chiếm 29,17%); Lứa tuổi từ 45 đến 54 chiếm tỷ lệ thấp hơn dao động từ 17-20% (năm 2009 chiếm 20,4%, năm 2010 chiếm 17,25% và năm 2011 chiếm 19,17%). Còn các nhóm tuổi trên 55 tuổi thấp do lớn tuổi sức khõe không tốt cho đi lại xa xôi, chiếm tỷ lệ dưới 10% . Về tâm lý của các lứa tuổi thì lứa tuổi trẻ bao giờ cũng hiếu động, thích trò chơi giải trí hết sức sôi động, thích đi dã ngoại và có phần mạo hiểm; các lứa tuổi trung niên thường có những nghiên cứu, quan hệ giao dịch làm ăn. Tùy theo đặc điểm của lứa tuổi, Các cơ sở kinh doanh du lịch đưa những mô hình resort có nhiều dạng thích hợp từng lứa tuổi và tùy theo mỗi nơi, mỗi lúc xem xét khách quốc tế đến từ lứa tuổi nào là chủ yếu mà chọn các loại hình dịch vụ cho phù hợp.

Cơ cấu theo nghề nghiệp của du khách quốc tế phần lớn là nhà thương gia, trong các năm có chiều hướng tăng (năm 2007 chiếm 24,1%, năm 2008 chiếm 30,67%, năm 2009 chiếm 30%, năm 2010 chiếm 31,5% và năm 2011 chiếm 32,5%), đây là loại du khách có điều kiện tiền bạc đi du lịch và kết hợp mở rộng quan hệ thương mại, tìm kiếm thị trường nên cơ cấu cao và có thể tăng nhiều hơn nữa. Tiếp đến là học sinh, sịnh viên lực lượng khá đông ham muốn đi du lịch mọi nơi (năm 2007 chiếm 11,91%, năm 2008 chiếm 11%, năm 2009 chiếm 14%, năm 2010 chiếm 11,75 và năm 2011 chiếm 11%). Khách du lịch lá Giáo sư, giảng viên, giáo viên chiếm tỷ không nhỏ (năm 2007 chiếm 12,54%, năm 2008 chiếm 13,67%, năm 2009 chiếm 10,8%, năm 2010 chiếm 9,75 và năm 2011 chiếm 10,33%). Các dạng nghề nghiệp khác chiếm cơ cấu thấp hơn (khảo sát trong năm nay nghề nghiệp kiến trúc sư chiếm 5,67%, nhà báo chiếm 5,33%, quan chức chính phủ chiếm 3,8%...). Tùy theo mức độ cơ cấu của nghề nghiệp cũng có những sự lựa chọn trong tiếp cận phục vụ và quảng bá các điểm đến theo thị hiếu và sở thích của hợ.

- Đặc điểm ở tỉnh có ấn tượng tốt nhất:

Đến với Bình Thuận du khách nước ngoài để lại ấn tượng tốt đẹp, một thủ đô của Resort, một phong cảnh đẹp do có một bờ biển dài, và bãi cát mịn màng thoai thoải kéo dài, nước biển xanh cùng với đồi núi chập chùng được thiên nhiên ban tặng như một bức tranh hữu tình, bầu trời trong xanh quanh năm hầu như là nắng ấm. Có những khu di tích lịch sử đáng ghi nhận và những lễ hội truyền thống đặc sắc sâu đậm nét địa phương. Qua khảo sát các năm thể hiện như sau:

 Ấn tượng tốt nhất như về phong cảnh đẹp: năm 2006 chiếm 50,1% thì năm 2011 nâng lên chiếm 51,2%. Điều này cho thấy các khu vực Hàm Tiến- Mũi Né - Tiến Thành đã có những khu du lịch sinh thái mang đậm màu sắc thiện nhiên êm đềm, bình lặng cùng với những resort nổi tiếng như: Làng Thụy Sĩ, Bambo Village, Muine De Century Beach Resort & Spa…khu giải trí liên hợp Forest đang không chỉ là điểm đến của nhiều du khách quốc tế mà còn là điểm dừng chân thật sự lý tưởng cho những tour dã ngoại…

Ấn tượng về con người Bình Thuận thì cũng có cơ cấu khá: năm 2006 chiếm 26,8% và năm 2011 chiếm 28,2%, thể hiện con người Bình thuận ngày càng thân thiện hơn và môi trường du lịch an toàn. Tuy nhiên cần phải hết sức chú ý đào tạo con người giao tiếp lịch thiệp, hiếu khách, nhân viên tiếp tân, hướng dẫn du lịch nhiều về số lượng và có trình độ chuyên môn cao. Ấn tượng về hàng hóa rẽ vẫn chưa chuyển biến tốt: năm 2006 chiếm 8,5% và năm 2011 chiếm 6,2%.

Các mức tỷ lệ này chưa phải là tối ưu, đòi hỏi tỉnh phải có kế hoạch, biện pháp nâng cao sức hấp dẫn, con người, môi trường thân thiện, nhất là mỗi điểm du lịch trong tỉnh có những đặc thù riêng, khác lạ nhằm thu hút du khách nhiều hơn nữa.

b) Nguồn tham khảo, mục đích, hình thức, độ dài chuyến đi:

- Du khách trong nước

+ Nguồn tham khảo quyết định đi du lịch:

Du khách tham khảo từ các nguồn để quyết định chuyến đi du lịch, chúng ta cũng cần nghiên cứu, tập trung quan tâm về cơ cấu nguồn tham khảo này để có những giải pháp quãng bá thích hợp:

Qua khảo sát các năm thì thấy bạn bè, người thân bao giờ cũng là yếu tố tham khảo chiếm tỷ lệ cao nhất và càng ngày càng nhiều hơn thể hiện qua cơ cấu tăng (năm 2006 chiếm 39,64%, năm 2007 chiếm 40,57%, năm 2008 chiếm 46,08%, năm 2009 chiếm 44,42%, năm 2010 chiếm 46,38% và năm 2011 chiếm 46,36%). Các công ty du lịch đã nỗ lực tạo dựng uy tín, tuyến tour du lịch phong phú, chất lượng hơn và cũng góp phần quảng bá các du lịch mới lạ, hấp dẫn, thể hiện qua nguồn tham khảo này tăng khá nhanh (năm 2006 chiếm 9,91%, năm 2007 chiếm 16,45%, năm 2008 chiếm 12,42%, năm 2009 chiếm 25,17%, năm 2010 chiếm 24% và năm 2011 chiếm 24,29%). Đặc biệt phương tiện Internet là một kênh thông tin nhanh nhạy và thuận tiện quãng bá du lịch của tỉnh, với những trang Web ngày càng có chiều sâu và đặc sắc hơn (trong đó có những trang web của tỉnh). Thể hiện qua cơ cấu nguồn thông tin tăng khá nhanh (năm 2006 chiếm 7,62%, năm 2007 chiếm 15,6%, năm 2008 chiếm 23,33%, năm 2009 chiếm 23,75%, năm 2010 chiếm 23,23% và năm 2011 chiếm 23,71%). Tuy nhiên mức độ này vẫn còn khiêm tốn, đòi hỏi cần phải mở rộng thêm kênh thông tin này như cập nhật đều về quảng bá du lịch trên WebSite của tỉnh và các trang quảng bá khác.

Sách, báo, tạp chí giữ mức trên mức thấp hơn nhưng có những tiến bộ nhất định (năm 2006 chiếm 10,04%, năm 2007 chiếm 12,34%, năm 2008 chiếm 23,17%, năm 2009 chiếm 19,92%, năm 2010 chiếm 12% và năm 2011 chiếm 13,71%). Ngược lại nguồn Ti vi giảm xuống từ 31,64% năm 2006 xuống còn 13,79% năm 2011 cho thấy đưa tin trên Đài truyền hình của quốc gia phủ sóng toàn quốc còn thiếu liều lượng.

+ Mục đích của chuyến Du lịch:

Về cơ cấu theo mục đích chuyến đi: Số du khách với mục đích vui chơi và giải trí là chủ yếu (năm 2006 chiếm 73,95%, năm 2007 chiếm 64,68%, năm 2008 chiếm 59,58%, năm 2009 chiếm 77,25%, năm 2010 chiếm 67,32% và năm 2011 chiếm 72%). Điều này cho thấy trong các năm qua Bình Thuận đã có nhiều nỗ lực trong việc tổ chức các sự kiện thể thao kết hợp với du lịch mang tầm quốc tế và thế giới. Bên cạnh đó các cơ sở lưu trú không ngừng đầu tư hoàn thiện cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng phục vụ, đưa thêm các sản phẩm dịch vụ du lịch mới lạ làm phong phú, đa dạng mô hình du lịch nghỉ dưỡng biển đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách.

Ngoài ra kết hợp du lịch với các mục đích khác, trước hết là với công tác, hội nghị tập huấn (du lịch MICE) diễn biến bất thường tùy theo sự kiện số lượng tổ chức hội họp, giao lưu trong năm của tỉnh, tuy nhiên những năm về sau có nhích lên (năm 2006 chiếm 9,53%, năm 2007 chiếm 13,05%, năm 2008 chiếm 17,76%, năm 2009 chiếm 8,42%, năm 2010 chiếm 11,15% và năm 2011 chiếm 10,5%). Mục đích thương mại vẫn ở mức thấp chưa có chuyển biến nhiều (năm 2006 chiếm 8%, năm 2007 chiếm 5,67%, năm 2008 chiếm 4,42%, năm 2009 chiếm 3,92%, năm 2010 chiếm 4,15% và năm 2011 chiếm 4,92%). Mục đích thăm bạn bè, họ hàng biểu hiện tiến bộ có tăng cơ cấu: từ tỷ lệ 2,16% năm 2006 nâng lên chiếm 6,71% năm 2011; thấp nhất là thông tin báo chí dao động và có chiều hướng giảm năm 2006 chiếm 3,81 thì năm 2011 chỉ còn 1,86%.

+ Hình thức tổ chức đi Du lịch:

Hình thức tổ chức đi du lịch có xu thế chuyển hướng đi theo tour. Khách đi theo tour năm 2006 chiếm 20,3% và năm 2011 chiếm 23,79%, khách tự sắp xếp đi năm 2006 chiếm 79,75% và năm 2011 chiếm 76,21%. Mặc dù tỷ lệ tour có tăng nhưng tự sắp xếp đi vẫn là chủ yếu (Nguyên nhân chủ yếu do lượng khách du lịch từ thành phố Hồ Chí Minh đến tỉnh ta rất lớn mà đoạn đường không dài chỉ có 200 km, du khách tự sắp xếp thì có nhiều thời gian hơn và tự do đến những nơi tùy thích lựa chọn nơi lưu trú, ăn uống vui chơi thoải mái hơn). Tuy nhiên trong tương lai, công ty du lịch lữ hành cần mở rộng các nơi thăm quan trên cơ sở bố trí các tuyến đi phù hợp với chí phí tour hợp lý sẽ nâng tỷ lệ đi theo tour sẽ cao hơn nữa. Hiện nay các CLB xe ô tô (OTOFC) thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức các tour du lịch đến Mũi Né (Phan Thiết-Bình Thuận) ngày càng nhiều hơn với chủ đề khám phá thành phố du lịch biển có thiên đường nghỉ dưỡng Mũi Né là điều kiện tốt cơ cấu du lịch theo tour tăng lên.

+ Phương tiện đi Du lịch:

Về cơ cấu khách theo phương tiện phần lớn khách đi bằng ô tô, năm 2006 chiếm 78,3% và năm 2011 chiếm 79,5%. Từ khi có chuyến tàu mang tên Hội tụ xanh đưa vào năm 2005 tuyến Phan Thiết-Thành phố Hồ Chí Minh, lượng khách đến bằng tàu hoả chiếm một tỷ lệ đáng kể. Hiện nay cơ cấu khách đi tàu hỏa có nhích lên so những năm trước nhưng chưa được nhiều, năm 2006 chiếm 16,6% và năm 2011 chiếm 17,9%.

+ Số lần du khách đến:

Về cơ cấu số lần du khách đến Bình Thuận với tỷ lệ đến lần thứ hai và thứ ba năm sau cao hơn năm trước, thể hiện du lịch Bình Thuận mặc dù hình thành và phát triển khá mới mẻ so với một số tỉnh bạn có truyền thống du lịch lâu đời nhưng sự thu hút du khách không kém, nhiều du khách đã quay trở lại ngày càng nhiều hơn. Số lần khách đến lần thứ hai: năm 2006 chiếm 30,4% thì năm 2011 nâng lên chiếm 35,1%; Số lần khách đến lần thứ ba: năm 2006 chiếm 29,4% thì năm 2011 nâng lên chiếm 31,5%. Đây là tỷ lệ khá lý tưởng cho du lịch của tỉnh.

Bảng cơ cấu số lần du khách trong nước đến Bình Thuận:

 

Năm

2006

Năm

2007

Năm

2008

Năm

2009

Năm

2010

Năm

2011

- Lần 1

42,69

29,69

29,25

32,00

33,62

33,36

- Lần 2

30,37

37,87

37,00

36,80

35,00

35,14

- Lần thứ 3 trở lên

26,94

32,62

33,75

31,20

31,38

31,50

+ Qui mô độ dài ngày bình quân của lượt khách:

Về qui mô độ dài ngày của một lượt khách du lịch chiếm không thay đổi gì nhiều, tuy nhiên mức độ lưu trú dài ngày hơn có nhích lên, thể hiện như sau: lượng khách đi du lịch với thời gian từ 1 đến 3 ngày chiếm phần lớn (năm 2006 chiếm 92,5% thì năm 2011 còn chiếm 89%). Đi du lịch lưu trú với thời gian 4 đến 7 ngày (năm 2006 chiếm 7,39% thì năm 2011 nâng lên chiếm 10,07%). Đi du lịch lưu trú với thời gian trên 7 ngày (năm 2006 chiếm 0,13% thì năm 2011 nâng lên chiếm 0,93%). Du lịch Bình Thuận vẫn chưa có những bứt phá lớn để lôi cuốn du khách tăng độ dài lưu trú của du khách (chủ yếu khách nhiều ở những ngày cuối tuần, còn những ngày khác trong tuần thì vắng khách).

- Du khách quốc tế

 + Nguồn tham khảo quyết định đi du lịch:

 Nguồn tham khảo nhiều nhất để quyết định chuyến đi chủ yếu là từ bạn bè, người thân chiếm phần lớn và nguồn này càng được nhân rộng cho các năm sau, chứng tỏ Bình Thuận có sức lôi cuốn, khách đến có ấn tượng tốt đẹp và tuyên truyền cho nhiều người khác cùng đến du lịch ở Bình Thuận. Kế đến là nguồn từ các công ty du lịch tham gia giúp khách du lịch hiểu rõ hơn về địa phương mình đến. Đồng thời từ nguồn sách báo, tạp chí cũng được người nước ngoài quan tâm. Đối với nguồn Internet, do quảng bá từ nguồn này ra nước ngoài của tỉnh chưa có nhiều trang web bằng tiếng nước ngoài, nội dung chưa phong phú nên ít người nước ngoài biết đến. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua cơ cấu từ nguồn này cũng đã có chuyển biến nhanh từ 2,3% năm 2006 vươn lên 25,67% cho 2011. Đây là một con số khả quan, khẳng định vai trò Internet trong việc quảng bá hình ảnh đẹp về Bình Thuận trong mắt du khách quốc tế. Thông qua đó cũng nói lên rằng vai trò kênh thông tin quảng bá du lịch qua Internet rất quan trọng và ngày càng phải được phát triển với nội dung phong phú hơn. Con số trên cũng nới lên các website của các hãng lữ hành nước ngoài, các Website trong tỉnh đang được quan tâm sâu sắc về cả số lượng, hình thức và nội dung.

Bảng cơ cấu nguồn tham khảo để quyết định đi du lịch của du khách quốc tế:

 

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

 - Bạn bè, người thân

45,70

30,09

42,00

44,80

40,25

45,50

 - Sách, báo, tạp chí

21,52

35,42

25,67

18,60

16,25

20,50

 - Internet

2,34

2,82

15,67

16,40

25,00

25,67

 - Công ty du lịch

23,18

15,05

16,67

18,20

21,50

26,17

 - Ti vi

14,24

16,61

15,00

14,60

11,25

15,67

 - Nguồn khác

2,30

7,84

4,33

10,00

7,00

11,67

+ Những tác động tới sự lựa chọn điểm đến du lịch:

Từ những tác động tới sự lựa chọn điểm đến du lịch thì điểm du lịch hấp dẫn được đa số chú ý cho thấy cảnh vật ở Bình Thuận gây ấn tượng tốt đối với du khách quốc tề và bên cạnh đó là điều kiện giao thông đã thuận lợi hơn nhờ sự tích cực đầu tư vào lĩnh vực giao thông mở rộng, thông thoáng trong các năm qua. Tỷ lệ sự lựa chọn điểm đến từ 2 tác đồng này tăng khá nhanh, thể hiện qua cơ cấu sau: Điểm du lịch hấp dẫn năm 2006 chiếm 45,7% thì năm 2011 chiếm 69,5% và phương tiện đi lại thuận tiện năm 2006 chiếm 7,6% thì năm 2011 chiếm 22,3%. Điển đến an toàn cũng có diễn biến tốt năm 2006 chiếm 14,1% thì năm 2011 chiếm 27,3%. Còn lại các tác động khác thì có phần giảm như Giá trị đồng tiền năm 2006 chiếm 19,5% thì năm 2011 chiếm 17,3%; Thủ tục hải quan và nhập cảnh đơn giản năm 2006 chiếm 9,9% thì năm 2011 chiếm 9,5%.

Bảng cơ cấu những tác động tới sự lựa chọn điểm đến du lịch của du khách quốc tế:

 

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

 - Điểm du lịch hấp dẫn

45,70

64,26

80,00

80,50

70,75

69,50

 - Phương tiện đi lại thuận tiện

7,62

10,97

12,10

19,80

20,75

22,33

 - Giá trị đồng tiền

19,54

15,96

17,00

12,20

9,00

17,33

 - Thủ tục hải quan và nhập cảnh đơn giản

9,93

5,64

12,33

9,20

11,25

9,50

 - Điểm đến an toàn

14,10

14,4

14,52

19,60

23,75

27,33

 - Khác

12,72

10,42

8,67

11,00

8,75

11,17

+ Mục đích của chuyến Du lịch:

Về cơ cấu theo mục đích chuyến đi, phần lớn là vui chơi, giải trí: Số du khách với mục đích vui chơi và giải trí năm 2006 chiếm 89,1% và năm 2011 chiếm 78,8%. Còn đi với kết hợp với mục đích khác thì rất thấp, trước hết là với công tác, hội nghị tập huấn đang có tăng (từ tỷ lệ 1,3% năm 2006 nâng lên chiếm 1,8% năm 2011). Với mục đích thăm bạn bè, họ hàng tăng mạnh, chiếm 1,3% năm 2006 nâng lên chiếm 6,7% năm 2011.

+ Hình thức tổ chức đi Du lịch:

Theo hình thức tổ chức đi đối với khách quốc tế càng ngày càng chuyển hướng đi theo tour nhiều hơn. Khách đi theo tour năm 2006 chiếm 40% thì năm 2011 nâng lên chiếm 46% và ngược khách tự sắp xếp đi tour năm 2006 chiếm 60% thì năm 2011 giảm còn chiếm 54%. Khách nước ngoài phần lớn từ Tour đến Việt Nam thông qua du lịch đến thành phố Hồ Chí Minh. Do vậy, cần khai thác lượng khách quốc tế du lịch đến Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua liên kết vùng trên cơ sở phát huy thuận lợi là Bình Thuận có bờ biển dài, đẹp và có nhiều Resort mà thành phố HCM không có. Khoảng đường cách Thành phố HCM không xa lắm và thuận cho việc đi lại. Trong những năm gần đây với BCĐ du lịch tỉnh hết sức quan tâm đến các chương trình xúc tiến du lịch nhằm tìm kiếm đối tác là các hãng du lịch, các nhà điều hành tour nhằm tìm đường đưa khách quốc tế đến Bình Thuận và cụ thể lượng khách Nga theo tour đến Mũi Né tăng nhanh.

+ Phương tiện đi Du lịch:

Khách quốc tế đến Việt Nam chủ yếu bằng máy bay, tuy nhiên đối với tỉnh ta chưa có sân bay, do vậy đến tỉnh Bình Thuận thường phải thông qua một tỉnh khác. Ở đây chủ yếu từ thành phố Hồ Chí Minh, do vậy đến tỉnh phần lớn phương tiện đi là khách đi bằng ô tô, năm 2006 chiếm 88,3% và năm 2011 chiếm 80,5%. Lượng khách đi bằng tàu hỏa có chuyển biến khá nhờ sự nỗ lực của tỉnh tăng cường phương tiện vận tải phục vụ du lịch, đã đầu tư đưa con tàu Hội tụ xanh hoạt động (phương tiện mới thể hiện tính ưu việt trong du lịch như an toàn, đáp ứng cho mọi lứa tuổi, thoải mái nghỉ ngơi trong khi vận chuyển) nên có mức tăng cơ cấu đáng kể: năm 2006 chỉ chiếm 9% thì năm 2011 đã nâng lên chiếm 17,8%.

+ Số lần du khách đến:

Về cơ cấu số lần khách quốc tế du lịch đến Bình Thuận có chuyển biến, khách quen thuộc trở lại Bình Thuận có nhiều hơn: Số lần khách đến lần thứ hai: năm 2006 chiếm 30,8% thì năm 2011 nâng lên chiếm 32,8%; Số lần khách đến lần thứ ba: năm 2006 chiếm 8,6% thì năm 2011 nâng lên chiếm 21,7%. Điều này chứng tỏ môi trường du lịch Việt Nam, trong đó có Bình Thuận đã từng bước hoàn thiện càng ngày càng hấp dẫn khách quốc tế hơn, khiến họ có xu hướng quay lại nhiều hơn và du lịch Bình Thuận có nhiều hứa hẹn với những vẻ đẹp tự nhiên và tiềm ẩn đang còn nhiều điều hấp dẫn cho du khách quốc tế.

Bảng cơ cấu số lần khách quốc tế du lịch đến Bình Thuận:

 

Năm 2006

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

 - Lần 1

60,60

47,96

46,00

50,00

45,25

45,50

 - Lần 2

30,79

36,05

37,00

32,80

33,50

32,83

 - Lần thứ 3 trở lên

8,61

15,99

17,00

17,20

21,25

21,67

 

+ Qui mô độ dài ngày bình quân của lượt khách:

Qua qui mô độ dài ngày của một lượt du khách quốc tế so với khách nội địa thường cao hơn nhiều, nhiều du khách lưu trú cả tuần, họ thường thích các môn thể thao trên biển và khám phá những vùng du lịch mới lạ: Lượng khách đi du lịch với thời gian từ 1 đến 3 ngày trước đây chiếm phần lớn nhưng hiện nay thì lưu trú với thời gian từ 4 đến 7 ngày là nhiều nhất, từ 8 ngày trở lên cũng có diễn biến tăng (thời gian từ 1 đến 3 ngày: năm 2006 chiếm 50,8% và năm 2011 chiếm 28,8%. Đi du lịch với thời gian 4 đến 7: năm 2006 chiếm 39,4% và năm 2011 chiếm 41,5%. Còn trên 7 ngày: năm 2006 chiếm 9,8% thì năm 2011 chiếm 29,67%).

Trong những năm gần đây khách quốc tế ở dài ngày có chuyển biến theo hướng tốt, cơ cấu lưu trú trên 7 ngày tăng lên. Tuy nhiên, cũng cần phải tăng cường chính sách ưu tiên, khuyến khích đầu tư vào các dự án có nhiều loại hình càng phong phú, hình thành những tổ hợp du lịch-thể thao quốc tế hoặc gắn liền với những dịch vụ thể thao trên biển tại Phan Thiết, Hàm Thuận Nam, Bắc Bình... để tăng độ dài ngày lưu trú hơn nữa.

Qua kết quả điều tra chi tiêu khách du lịch, với ý nghĩa tập trung tăng các chi tiêu khác ngoài ở, giữ mức ổn định khách đến lần thứ hai, thứ ba và thu hút nhiều khách du lịch mới (chưa lần nào đến Bình Thuận). Tỉnh đã phát động “Chương trình đưa văn hóa về cơ sở” để quảng bá du lịch, trong đó đội ngũ Thông tin tuyên truyền huyện, thị xã, thành phố của các vùng du lịch như Phan Thiết, Lagi, Tuy Phong… triển khai rầm rộ “Thông tin lưu động”.

Các doanh nghiệp du lịch Bình Thuận đẩy mạnh công tác quảng bá hình ảnh, thương hiệu, sản phẩm đến với thị trường Nga, một thị trường được xem là đầy tiềm năng của du lịch Bình Thuận trong vài năm trở lại đây. Một số resort cao cấp ở Phan Thiết như Sài Gòn - Mũi Né, Làng Tre, Hải Âu, Sea Links, Trăng Tròn, Terracotta, Sea Horse…còn trực tiếp giới thiệu về cơ sở, sự thân thiện của nhân viên phục vụ, chất lượng và sự đa dạng của dịch vụ, các chương trình khuyến mãi, tiềm năng và nét hấp dẫn của từng khu du lịch cho khách tham quan.

Ngoài thành phố Maxcơva - thủ đô Nga, du lịch Bình Thuận còn tham gia giới thiệu và quảng bá tại 2 thành phố khác là Leningrad và Novosibirsh, nơi có rất đông du khách luôn chọn Phan Thiết-Mũi Né là điểm đến khi du lịch tại Việt Nam. Các hãng du lịch lớn của hai quốc gia Hàn Quốc và Ukraine đã đi thăm các địa danh du lịch của TP Phan Thiết như Hòn Rơm, Mũi Né và các khu Resort cao cấp ở phường Hàm Tiến nhằm khảo sát tiềm năng du lịch Bình Thuận.

Đầu trang | Trang trước | Tiếp theo