[ 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 ]

 

 

 

9. Đánh giá tổng quát

Năm 2014, trước thực trạng sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn; tình hình biển Đông có nhiều diễn biến phức tạp, ảnh hưởng đến động thái phát triển kinh tế xã hội và đời sống dân cư cả nước; song kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận vẫn tiếp tục chuyển biến tích cực. Sản lượng lương thực; khai thác hải sản giữ ổn định; công nghiệp tăng trưởng khá; hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục phát triển; xuất khẩu thuỷ sản tăng; giá mặt hàng tiêu dùng biến động tăng không đáng kể; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tốc độ tăng trưởng tuy thấp so với những năm trước nhưng vẫn cao hơn so với mức tăng trưởng cả nước. Thu nhập từ các ngành nghề sản xuất kinh doanh tiếp tục tăng; đời sống của những người làm công ăn lương được tiếp tục cải thiện. Mức tích lũy của hộ ở các khu vực, các vùng tuy có khác nhau, song nhìn chung là có tăng lên. Đã tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, chính sách xoá đói giảm nghèo và nhiều chương trình quốc gia khác hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, các xã đặc biệt khó khăn; tiếp tục cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế và miễn giảm chi phí khám chữa bệnh cho người nghèo. Tình trạng thiếu đói, khó khăn trong sinh hoạt ở khu vực nông thôn giảm so với những năm trước. Đời sống các tầng lớp dân cư có chuyển biến tiến bộ rõ rệt, dân cư các vùng đã phát huy tốt tinh thần trách nhiệm, tham gia tích cực việc đóng góp lập các quỹ xã hội, đóng góp nhiều ý kiến cho địa phương, phát huy được tinh thần làm chủ tập thể.

Căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương, kết hợp với sự biến động giá hàng hoá, dịch vụ tác động trực tiếp đến đời sống dân cư; nếu phân loại về mức sống dựa vào kết quả thu nhập bình quân đầu người/tháng, có thể phân theo nhóm hộ sau đây:

- Hộ có mức sống cao

(Thành thị: Thu nhập từ trên 6,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 5,0 triệu đồng trở lên)

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống cao là 6,66%; trong đó thành thị 6,85%, nông thôn 6,57% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống cao là 3,66%; trong đó thành thị 2,5%, nông thôn 4,21%)

- Hộ có mức sống khá

(Thành thị: Thu nhập từ trên 4,0 triệu đồng – 6,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 3,0 triệu đồng - 5,0 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống khá là 17,53%; trong đó thành thị 14,39%, nông thôn 19,46% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống khá là 22,8%; trong đó thành thị 18,13%, nông thôn 22,53%)

- Hộ có mức sống trung bình

(Thành thị: Thu nhập từ trên 2,0 triệu đồng  - 4,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 1,5 triệu - 3,0 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 49,40%; trong đó thành thị 52,46%, nông thôn 47,53% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống trung bình là 29,46%; trong đó thành thị 18,96%, nông thôn 34,41%)

- Hộ có mức sống dưới trung bình

(Thành thị: Thu nhập từ trên 1,5 triệu đồng  - 2,0 triệu đồng; Nông thôn từ trên 920 ngàn đồng - dưới 1,5 triệu đồng).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 14,73%; trong đó thành thị 15,61%, nông thôn 14,19% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình là 26,8%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 25,2%)

- Hộ có mức sống thấp

(Thành thị: Thu nhập từ 1,5 triệu đồng trở xuống; Nông thôn từ 920 ngàn đồng trở xuống).

Kết quả cho thấy tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 11,67%; trong đó thành thị 10,70%, nông thôn 12,26% (năm 2010: tỷ lệ hộ có mức sống thấp là 27,4%; trong đó thành thị 30,21%, nông thôn 26,08%). Trong đó:

+ Hộ nghèo (theo mức chuẩn: thành thị từ 500 ngàn đồng trở xuống; nông thôn từ 400 ngàn đồng trở xuống) toàn tỉnh là 3,80%; trong đó thành thị 2,28%, nông thôn 4,73% (năm 2010: tỷ lệ hộ nghèo còn 9,33%; trong đó thành thị 3,96%, nông thôn 11,8%)

+ Hộ cận nghèo (theo mức chuẩn: thành thị từ trên 500 - 650 ngàn đồng; nông thôn từ trên 400 - 520 ngàn đồng) toàn tỉnh là 2,0%; trong đó thành thị 1,93%, nông thôn 2,04% (năm 2010: toàn tỉnh là 4,9%; trong đó thành thị 3,7%, nông thôn 5,5%)

Như vậy so với năm 2010, tỷ lệ hộ có mức sống cao tăng lên khá; tỷ lệ hộ có mức sống dưới trung bình, mức sống thấp giảm khá nhiều. Điều đó cho thấy thu nhập của các tầng lớp dân cư được tăng lên; tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo giảm xuống.

Song nếu đưa yếu tố trượt giá tiêu dùng (CPI) với mức tăng thêm 40% so với năm 2010 thì Hộ nghèo (thành thị từ 700 ngàn đồng trở xuống; nông thôn từ 560 ngàn đồng trở xuống) và hộ cận nghèo (thành thị từ trên 700 – 920 ngàn đồng; nông thôn từ trên 560 – 740 ngàn đồng) có tỷ lệ như sau:

 Tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh là 5,93%; trong đó thành thị 4,21%, nông thôn 6,99%

            Tỷ lệ hộ cận nghèo toàn tỉnh là 1,73%; trong đó thành thị 0,53%, nông thôn 2,47%.

            Như vậy theo mức chuẩn hộ nghèo (có tính đến yếu tố trượt giá tiêu dùng) thì tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 3,40% (so với năm 2010); tỷ lệ hộ cận nghèo giảm 2,9% (so với năm 2010).

            Những kết quả trên cho thấy đây là một cố gắng lớn của Đảng bộ và chính quyền địa phương, khẳng định đường lối đúng đắn cùng với các biện pháp chỉ đạo hiệu quả nâng cao mức sống của dân cư. Thu nhập bình quân đầu người tiếp tục tăng, đời sống các tầng lớp dân cư được tiếp tục được cải thiện, tỷ lệ hộ có mức sống cao tiếp tục tăng. Đa số chủ hộ gia đình nhận định mức sống khá hơn so với năm trước với kết quả sau:

            Tại thành thị, có 48,1% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 48,6% cho là mức sống tương đương như năm trước

            Tại nông thôn, có 60,1% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 35,1% cho là mức sống tương đương như năm trước

            Vùng đồng bằng, có 42,2% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 53,1% cho là mức sống tương đương như năm trước

            Vùng trung du, có 90% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 10,0% cho là mức sống tương đương như năm trước

            Vùng miền núi, có 62,2% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 34,2% cho là mức sống tương đương như năm trước

            Vùng cao, hải đảo có 40,0% chủ hộ gia đình cho là mức sống khá hơn; 50,0% cho là mức sống tương đương như năm trước

10. Một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục cải thiện, nâng cao mức sống:

            Tiếp tục cải thiện, nâng cao mức sống dân cư có nhiều giải pháp, song căn cứ vào tiềm năng và thực trạng nền kinh tế xã hội của tỉnh nhà; qua kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình, xin kiến nghị một số giải pháp sau:

            a. Tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đào tạo nghề, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất

            Tăng trưởng và phát triển kinh tế được quyết định bởi nhân tố con người nói chung và lực lượng lao động nói riêng, bởi tăng trưởng và phát triển kinh tế tuỳ thuộc trước hết vào năng lực, trí tuệ và ngành nghề của người lao động. Vì vậy cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng lao động

            Bình Thuận có nguồn lao động dồi dào nhưng chất lượng nguồn lao động, năng suất lao động xã hội còn thấp, thừa lao động phổ thông, thiếu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Trình độ văn hoá của lao động tuy không thấp so với của cả nước nhưng số lao động được qua đào tạo kỹ thuật nghiệp vụ còn thấp. Riêng khu vực nông thôn, nếu triển khai tích cực nâng cao chất lượng lao động thông qua việc đào tạo nghề được sẽ giúp lao động chuyển nghề, hướng đến chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng yêu cầu của chương trình xây dựng nông thôn mới.

            Muốn vậy phải xác định rõ mục tiêu đào tạo đối với từng cấp học, bậc học, ngành học. Trên cơ sở đó phân luồng, định hướng nghề nghiệp cho học sinh, cho người lao động theo nhu cầu nhân lực của xã hội và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Mặt khác, cần ban hành chế độ chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật tay nghề; xây dựng và vận hành cơ chế hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; c
ụ thể hóa và đẩy mạnh thực hiện chiến lược Phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2011-2020 bằng việc điều tra, khảo sát nhân lực hiện đang làm việc và nhu cầu nhân lực trong các năm tới ở các ngành, vùng miền để có định hướng phân bổ hợp lý về trình độ, cơ cấu ngành nghề phù hợp với quy hoạch phát triển nhân lực của địa phương; coi trọng việc phát hiện, bồi dưỡng, sử dụng hợp lý nguồn nhân lực và trọng dụng nhân tài; thông qua các hình thức đào tạo không chính quy giúp người lao động được giao lưu học hỏi, trao đổi kinh nghiệm, cập nhật kiến thức và kỹ thuật công nghệ mới; cải thiện và tăng cường thông tin về xu hướng nghề nghiệp, thị trường lao động, nhu cầu nhân lực của các tổ chức, doanh nghiệp, các ngành kinh tế-xã hội.

            Các trung tâm khuyến công, khuyến nông phối hợp với các ngành chuyên môn mở các lớp tập huấn, dạy nghề, chuyển giao công nghệ, khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ cho người lao động đã lớn tuổi không có điều kiện đi học tập trung. Tư vấn mô hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện địa phương. Chuyển hình thức đào tạo tập trung bằng hình thức đào tạo nghề gắn với cơ sở sản xuất giúp người lao động có điều kiện thực hành trực tiếp trên máy móc thiết bị. Phối hợp với các cơ sở đào tạo nghề ngắn hạn miễn phí cho lao động nông thôn, lao động thuộc diện bị thu hồi đất sản xuất, lao động là người tàn tật để đào tạo nghề cho lao động chuyển đổi ngành nghề, tìm kiếm việc làm ổn định. Mở rộng mối quan hệ với các doanh nghiệp có nhu cầu tuyển dụng lao động đào tạo nghề trực tiếp tại các công ty, Nhà máy để gắn với việc làm sau đào tạo.

            Những năm qua công tác đào tạo, dạy nghề và phát triển các trường chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên tuy được quan tâm, song tỷ lệ người lao động từ 15 tuổi trở lên được đào tạo qua trường lớp chưa nhiều. Theo kết quả điều tra năm 2014, toàn tỉnh có 14,0% người lao động từ 15 tuổi trở lên được đào tạo từ sơ cấp nghề trở lên, trong đó thành thị 18,3%, nông thôn 11,3% (năm 2010: toàn tỉnh 8,4%, thành thị 13,4%, nông thôn 5,9%). Nếu tính từ trình độ cao đẵng nghề trở lên toàn tỉnh đạt 8,1%, trong đó thành thị 10,3%, nông thôn 6,8% (năm 2010: toàn tỉnh 3,2%, thành thị 5,2%, nông thôn 2,3%). Như vậy so với năm 2010, trình độ chuyên môn kỹ thuật nghiệp vụ của người lao động đã được nâng lên ở 2 khu vực. Điều đó cho thấy công tác đào tạo, dạy nghề đã chuyển biến tích cực

            Thông qua các chương trình kinh tế - xã hội, mở mang ngành nghề ... hàng năm địa phương đã giới thiệu và tạo việc làm cho khoảng 24 ngàn lao động. Tuy vậy so với các tỉnh, thành trong khu vực, chất lượng lao động tỉnh nhà còn thấp, chưa thật ổn định, một số cơ sở tuyển dụng lao động chưa thật “ưng ý” do ngành nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu tuyển dụng. Qua điều tra cho thấy ý kiến chủ hộ đề xuất Nhà nước cần chú ý đào tạo thêm một số ngành nghề để phù hợp với nhu cầu tại địa phương như: Kỹ thuật nông nghiệp (57,0% chủ hộ đề xuất); nuôi trồng thuỷ sản (9,3%); Kỹ thuật xây dựng (14,9%); Chế biến thực phẩm (20,3%); Du lịch (13,0%); Các ngành kinh tế (43,9%). Do vậy trong thời gian tới các đơn vị đào tạo phải nghiên cứu và có những giải pháp thích hợp hơn nữa trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại địa phương.

            b. Thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn tạo điều kiện thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu lao động

            Tiếp tục thực hiện tốt công tác giao đất, giao rừng cho người dân để họ yên tâm sản xuất, đầu tư thâm canh, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng suất lao động. Chủ trọng phát triển các cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ưu tiên các hình thức chuyên canh, tạo cơ chế thuận lợi cho các mô hình trang trại có tiềm năng phát triển nhằm thu hút lao động tại chỗ, khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế của địa phương. Có chính sách ưu đãi đối với tiền thuê đất ở các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống nhằm tạo điều kiện để họ phát triển sản xuất, thu hút lao động, giải quyết việc làm.

            Cơ sở hạ tầng địa phương có tác động đến tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động. Cần có chính sách tăng cường việc nâng cấp và hoàn thiện hạ tầng trên cơ sở có quy hoạch một cách khoa học khu vực nông thôn, làm cho thị trường hàng hóa nông thôn phát triển, tạo nên sự đa dạng của ngành nghề lao động, giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp, giảm dần khoảng cách với khu vực thành thị và tạo mối liên kết chặt chẽ với khu vực thành thị. Cần thực hiện tốt công tác quy hoạch đi đôi với quản lý quy hoạch. Trên cơ sở định hướng xây dựng nông thôn mới, tiến hành rà soát lại toàn bộ các quy hoạch đã triển khai để tiếp tục bổ sung, điều chỉnh phù hợp; Xây dựng các trung tâm thương mại, mở rộng mạng lưới chợ, tạo môi trường thuận lợi cho lưu thông hàng hóa, dịch vụ; Củng cố, nâng cấp những công trình hiện có theo hướng hiện đại hóa từng bước thay thế thiết bị cũ đã lạc hậu, công suất thấp, kiên cố hóa hệ thống kênh mương, tiếp tục đầu tư nâng cấp các công trình thủy lợi, đảm bảo tưới tiêu, chủ động cho trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và sinh hoạt nông thôn.

            Trong thời gian qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ trên địa bàn tỉnh đã có thay đổi nhưng tỷ lệ còn thấp. Năm 2014 cơ cấu lao động nông lâm thuỷ sản còn 47,0% (năm 2010: 52,2%); công nghiệp xây dựng 20,5% (năm 2010: 17,1%); dịch vụ 32,5% (năm 2010: 30,7%).

            Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng tỷ trọng lao động phi nông nghiệp sẽ đưa nền kinh tế tăng trưởng ổn định. Ở nông thôn, nếu chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động trong nhóm ngành nông lâm thủy sản để tăng nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ sẽ tạo thuận lợi cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đẩy nhanh đến tiến trình xây dựng nông thôn mới. Nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ nếu được phát triển đồng đều ở 2 khu vực sẽ tạo điều kiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, nâng cao năng suất lao động, tạo động lực để chuyển dịch lao động giữa các ngành và nội bộ ngành đồng thời giảm thiểu việc di chuyển lao động giữa các vùng địa lý hành chính. Mặt khác, nếu phát triển được các ngành công nghiệp dịch vụ hướng về xuất khẩu sử dụng nhiều lao động (đặc biệt là lao động nông thôn) và những ngành đảm bảo tăng việc làm nhanh sẽ duy trì được sự cân bằng giữa tăng việc làm với tăng năng suất cả ở 2 khu vực, đưa nền kinh tế ổn định và bền vững. Hiện nay, lao động nông thôn ở Bình Thuận khá nhiều nhưng thời gian nhàn rỗi còn tương đối cao, đa số là thuần nông, thu nhập bấp bênh; lao động phi nông nghiệp cả thành thị và nông thôn lại chưa tạo ra động lực về chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm, không đáp ứng đúng và theo kịp nhu cầu thị trường. Đây là vấn đề tồn tại, cần khắc phục trong những năm tới.

            c. Khắc phục những tồn tại, hạn chế, tạo việc làm ổn định cho người lao động

            Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để đảm bảo cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đôi với có thu nhập để nuôi sống bản thân mình, vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Đối với xã hội thì mỗi một cá nhân, gia đình là một yếu tố cấu thành nên xã hội, vì vậy việc làm cũng tác động trực tiếp đến xã hội. Khi mọi cá nhân trong xã hội có việc làm thì xã hội đó được duy trì và phát triển do không có mâu thuẫn nội sinh trong xã hội, không tạo ra các tiêu cực, tệ nạn trong xã hội, con người được dần hoàn thiện về nhân cách và trí tuệ…Ngược lại khi nền kinh tế không đảm bảo đáp ứng về việc làm cho người lao động có thể dẫn đến nhiều tiêu cực trong đời sống xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự phát triển nhân cách con người. Con người có nhu cầu lao động ngoài việc đảm bảo nhu cầu đời sống còn đảm bảo các nhu cầu về phát triển và tự hoàn thiện, vì vậy trong nhiều trường hợp khi không có việc làm sẽ ảnh hưởng đến lòng tự tin của con người, sự xa lánh cộng đồng và là nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Ngoài ra khi không có việc làm trong xã hội sẽ tạo ra các hố ngăn cách giàu nghèo. Vai trò của việc làm đối với từng cá nhân, kinh tế, xã hội là rất quan trọng. Vì vậy, để đáp ứng được nhu cầu việc làm của toàn xã hội đòi hỏi Nhà nước phải có những chiến lược, kế hoạch cụ thể để tạo việc làm ổn định cho người lao động

            Theo kết quả điều tra, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc năm 2014 là 86,2% (năm 2010: 80,5%; trong đó thành thị 83,9% (năm 2010: 77,7%); nông thôn 87,6% (năm 2010: 81,9%). Tỷ lệ người đang làm việc ổn định so với số người có nhu cầu làm việc là 81,8% (năm 2010: 81,7%); trong đó thành thị 83,2% (năm 2010: 87%); nông thôn 81,0% (năm 2010: 79,2%). Tỷ lệ người có việc làm nhưng chưa ổn định so với người có nhu cầu làm việc là 14,3% (năm 2010: 14,5%); trong đó thành thị 14,6% (năm 2010: 9,4%); nông thôn 14,1% (năm 2010: 16,9%). Tỷ lệ người thất nghiệp so với người có nhu cầu làm việc là 3,9% (năm 2010: 3,8%); trong đó thành thị 2,2% (năm 2010: 3,6%); nông thôn 4,9% (năm 2010: 4%).

            Như vậy tỷ lệ người lao động có nhu cầu làm việc năm 2014 ở 2 khu vực đều tăng so với năm 2010; tỷ lệ người đang làm việc ổn định ở khu vực thành thị năm 2014 thấp thua so với năm 2010, song ở khu vực nông thôn cao hơn; tỷ lệ người thất nghiệp năm 2014 ở khu vực giảm so với năm 2010, song ở nông thôn lại gia tăng; tỷ lệ người có việc làm “bấp bênh” ở khu vực nông thôn giảm một ít, song ở khu vực thành thị lại tăng cao hơn so với năm 2010. Điều đó cho thấy, thực trạng có nhu cầu việc làm năm 2014 tăng lên, song tình trạng có việc làm ổn định chưa có nhiều chuyển biến; việc làm ở thành thị còn bấp bênh, tỷ lệ người thất nghiệp ở nông thôn có chiều hướng gia tăng. Trong điều kiện sản xuất kinh doanh những năm qua đối mặt với những khó khăn, thực trạng lao động và việc làm như trên là “tất nhiên”.

            Trong những năm qua kinh tế tỉnh nhà đã có chuyển biến tích cực, song trên một số lĩnh vực vẫn còn những khó khăn nhất định: Chăn nuôi hồi phục chậm; nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn; phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp chế biến phát huy chưa đồng bộ. Sản xuất công nghiệp có phát triển song thị trường tiêu thụ sản phẩm chưa ổn định, hiệu quả sản xuất thấp; các làng nghề tiểu thủ công nghiệp hoạt động chưa khởi sắc; sản xuất theo quy mô nhỏ lẻ, chưa bắt kịp với sự phát triển của thị trường, thiết bị - công nghệ sản xuất lạc hậu, sản phẩm chưa có thương hiệu nên khó cạnh tranh trên thương trường; cơ chế chính sách cho phát triển nghề và làng nghề chưa triển khai đầy đủ, đồng bộ. Xuất khẩu chế biến từ nguồn nguyên liệu tại địa phương còn ít. Triển khai xây dựng hạ tầng các khu công nghiệp chậm, thu hút đầu tư thấp. Phát triển du lịch chưa đi vào chiều sâu, chưa thu hút được nhiều dự án có quy mô lớn. Những khó khăn đó sẽ tác động đến giải quyết việc làm cho người lao động và thu nhập của các tầng lớp dân cư. Do vậy trong thời gian tới, các ngành chức năng phải thường xuyên phối hợp với các địa phương xem xét tạo nhiều cơ hội việc làm có thu nhập ổn định cho người lao động; tăng cường cải thiện điều kiện việc làm thông qua vay vốn tạo việc làm, tiếp cận thông tin, thông tin thị trường lao động, thực hiện Chương trình Mục tiêu quốc gia về việc làm và dạy nghề; Chương trình hỗ trợ đào tạo nghề lao động nông thôn, lao động đi làm việc ở nước ngoài  nhằm hỗ trợ tạo việc làm, tăng thu nhập, khắc phục từng bước tình trạng lao động mất việc làm và thất nghiệp.

            Mặt khác, phải đẩy mạnh chính sách hỗ trợ vốn cho người dân phát triển sản xuất, hỗ trợ người nghèo, phát triển quỹ tín dụng nhân dân, chính sách vay vốn sản xuất. Cần phải đơn giản hóa các thủ tục vay vốn, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận với nguồn vốn dễ dàng, lãi suất thích hợp để cho nông dân có thể vay vốn phát triển sản xuất. Qua điều tra năm 2014 30,9% chủ hộ cho biết đang phải vay thêm vốn để hoạt động, trong số đó có 37,7% số hộ đang vay vốn trên 50 triệu đồng (bình quân mỗi hộ đang có số dư nợ 65,3 triệu đồng, trong đó thành thị 59,4 triệu đồng; nông thôn 68,1 triệu đồng). Đó cũng chính là nhu cầu mức vay của hộ hiện nay. Trong thời gian tới, cần tiếp tục xem xét mở rộng diện cho vay, chú ý đến đối tượng “cho vay không cần thế chấp để các hộ có việc làm, thu nhập ổn định. Đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tiếp cận chính sách kích cầu của chính phủ và các chính sách khác để đầu tư phát triển kinh tế xã hội giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo.

            d. n định về môi trường để phát triển kinh tế bền vững; thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư

            Cùng với việc phát triển nguồn nhân lực; thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế và chính sách xã hội, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo việc làm ổn định cho người lao động, phải chú trọng đảm bảo trật tự an toàn xã hội; ổn định về môi trường để phát triển kinh tế bền vững, thực hiện an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư.

            Phát triển kinh tế xã hội là quá trình nâng cao điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người trong quá trình sống. Giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.

            Trong hệ thống kinh tế xã hội, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất đến lưu thông, phân phối và tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại. Môi trường tự nhiên cũng tác động đến sự phát triển kinh tế xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài nguyên hoặc gây ra các thảm họa, thiên tai.

            Như vậy cần phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững không được khai thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh học; không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo vệ môi trường.

            Các chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều có cùng mục đích và mục tiêu vì con người và xã hội của những người lao động. Chất lượng nhân văn của phát triển con người và xã hội được xác định bởi chất lượng giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội và an sinh xã hội trên cơ sở của những điều kiện, tiền đề kinh tế.

            An sinh xã hội là một hợp phần của hệ thống các vấn đề xã hội. Thực hiện được an sinh xã hội là thực hiện được tiền đề của ổn định, thực hiện được điều kiện của phát triển. An sinh xã hội là thước đo nhân văn của một xã hội phát triển bền vững là phát triển bền vững con người.  Việc làm, mức sống, môi trường sống, điều kiện lao động đủ sức phòng ngừa tai nạn, rủi ro, được thụ hưởng lợi ích về giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin, đời sống văn hóa, tinh thần... đó là những bảo đảm an sinh xã hội cho sự sống, đời sống của con người.

            An sinh xã hội cho cá nhân và cộng đồng trong một xã hội đã đi vào kinh tế thị trường với những mặt trái và cả những hệ lụy của nó còn phải tính đến những bảo đảm xã hội cho các đối tượng thua thiệt trong phát triển (người khuyết tật, trẻ em mồ côi, người già cô đơn không nơi nương tựa, người mắc bệnh hiểm nghèo...). Do đó, trong mạng lưới an sinh - xã hội còn phải tính đến những cứu trợ xã hội, trợ giúp xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

            Hiện nay, tạo việc làm và giảm nghèo chưa bền vững, tỷ lệ hộ cận nghèo và tái nghèo còn cao; mức trợ cấp ưu đãi người có công còn thấp; chất lượng công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe chưa đáp ứng được yêu cầu của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm chậm; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ; tỷ lệ người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế còn thấp; đời sống của một bộ phận người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn khó khăn, chưa bảo đảm được mức tối thiểu dịch vụ xã hội cơ bản, nhất là về nhà ở và sử dụng nước sạch.

            Kết quả điều tra cho thấy khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa hộ thuộc nhóm thu nhập cao và nhóm thu nhập thấp vẫn còn khá xa. Thu nhập bình quân/nhân khẩu thuộc nhóm hộ có thu nhập cao nhất gấp 5,18 lần so với nhóm hộ có thu nhập thấp nhất (2010: gấp 6,43 lần). Nhóm hộ có thu nhập cao thường có tài sản, vốn SXKD khá, đầu tư trên nhiều lĩnh vực nên dễ ổn định cuộc sống và vươn lên làm giàu. Nhóm hộ có thu nhập thấp thường là hộ có vốn sản xuất kinh doanh ít, đông nhân khẩu ăn theo và lao động trong hộ có việc làm không ổn định nên dễ dẫn đến tình trạng “tái nghèo” nếu không có sự trợ giúp của Nhà nước. Đáng chú ý là hộ nghèo, cận nghèo đông nhân khẩu trở lên còn chiếm tỷ trọng khá cao; qua kết quả điều tra hộ nghèo có từ 5 nhân khẩu trở lên chiếm 35,1% (trong tổng số hộ nghèo) và hộ cận nghèo chiếm 36,6% (trong tổng số hộ cận nghèo). Do vậy trong thời gian tới, các chính sách giảm nghèo phải tiếp tục tập trung vào việc hỗ trợ nguồn lực về sản xuất để cho hộ nghèo vươn lên thoát nghèo thông qua việc tiếp tục triển khai các chương trình hỗ trợ người nghèo, huyện nghèo, xã, thôn .. đặc biệt khó khăn nhằm hỗ trợ người lao động thuộc hộ nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, thoát nghèo bền vững và thu hẹp khoảng cách về đời sống và tiếp cận dịch vụ xã hội.

            Song song với vấn đề tạo việc làm cho người đến tuổi lao động; đẩy mạnh thực hiện giảm nghèo, cần chú trọng đến phát triển bảo hiểm xã hội; trợ giúp xã hội cho những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; bảo đảm chăm sóc y tế tối thiểu; thực hiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân; có chính sách hỗ trợ phí mua cho người dân có thu nhập từ dưới trung bình trở xuống hiện chưa bắt buộc tham gia (toàn tỉnh hiện nay tỷ lệ người tham gia mua bảo hiểm y tế đạt 56,6%). Nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em, giảm mạnh tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng dân số; cải thiện dịch vụ chăm sóc sức khỏe nhân dân ở các tuyến cơ sở, ưu tiên các huyện nghèo, xã nghèo, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Đầu trang | Trang trước