CÁC TIN LIÊN QUAN
Đại biểu đề nghị có lộ trình giảm ODA

Trong phiên thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế-xã hội sáng 30/10, nhiều đại biểu Quốc hội yêu cầu tăng cường quản lý ODA, vì ODA có thể sẽ là nguyên nhân tăng nợ công.

 

Phụ thuộc lâu dài vào ODA là thất bại

Bày tỏ quan điểm của mình về việc sử dụng nguồn vốn ODA trong giai đoạn vừa qua, đại biểu Nguyễn Văn Tiên (đoàn Tiền Giang) cho biết: "Chúng ta phải phân biệt nguồn vốn ODA có hai loại là ODA không hoàn lại và ODA hoàn lại. ODA hoàn lại liên quan nhiều đến nợ công và đối với các dự án ODA vay phải hết sức cẩn thận vì nó sẽ là nguyên nhân tăng nợ công".

Đã vậy, theo đại biểu Tiên, hiện nay, có dự án hàng trăm triệu đôla vay ODA để chi thường xuyên.

Vị  đại biểu đề nghị, các dự án ODA vay phải có ý kiến của Quốc hội trước khi đưa vào sử dụng vì nếu không nợ công sẽ tăng lên.

Đồng tình cao với ý kiến của đại biểu Nguyễn Văn Tiên, đại biểu Lê Thị Nga (đoàn Thái Nguyên) cho rằng, vốn ODA là nguồn hỗ trợ phát triển chính thức. Đến nay chỉ có một bộ phận nhỏ, viện trợ không hoàn lại còn phần nhiều là cho vay ưu đãi có điều kiện.

“Bất cứ quốc gia nào, nếu phụ thuộc lâu dài vào ODA thì đó là thất bại của chiến lược phát triển”, bà Nga chỉ rõ.

Qua hơn 20 năm Việt Nam thu hút khoảng 78 tỷ USD, bình quân 3 tỷ USD/năm. Chính phủ đã rất nỗ lực và kết quả nguồn vốn này đã đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội, nhiều chương trình, dự án đạt chất lượng tốt.

Tuy nhiên, thực tế đã phát sinh nhiều bất cập, thậm chí vi phạm và tội phạm, thất thoát, lãng phí tham nhũng trong nhiều dự án đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng công trình, làm mất uy tín của Việt Nam đối với nhà tài trợ.

Điển hình là các vụ PMU 18, vụ Huỳnh Ngọc Sỹ, vụ nghi vấn tiêu cực tại Dự án Danisa Đan Mạch 2012, vụ JTC đường sắt gần đây.

“Đáng lưu ý, tuy có nhiều cơ chế kiểm tra giám sát nhưng những vụ vi phạm lớn lại chỉ được phát hiện do phía nước ngoài”, đại biểu Nga e ngại.

Nguyên nhân của hiện trạng này là do hành lang pháp lý của Việt Nam còn thiếu và yếu. ODA chủ yếu được điều chỉnh bởi Nghị định 38 năm 2013 của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng hướng dẫn của các bộ, ngành, địa phương và quy định của nhà tài trợ. Các quy định này còn phức tạp, phân tán, hiệu lực pháp lý thấp. Việc đảm bảo công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong Nghị định 38 mới chỉ mang tính nguyên tắc mà chưa được cụ thể hóa hết vào quy trình ODA, dẫn đến chưa ngăn chặn được tình trạng xin, cho, cò dự án, tiêu cực, tham nhũng.

Đáng lưu ý, theo bà Nga, pháp lý về ODA đã bộc lộ 2 điểm yếu cơ bản nhất là: Quốc hội, người chịu trách nhiệm cao nhất về nợ công và người dân, chủ thể phải đóng thuế và là người trả nợ cuối cùng gần như đứng ngoài quy trình về ODA.

Điểm yếu thứ hai, theo bà Nga là về giám sát của Quốc hội. Với tư cách là một phần của đầu tư công và nợ công, lại tác động đến vị thế và uy tín quốc gia. Nhưng những năm qua cả về pháp lý cũng như thực tiễn, trách nhiệm giám sát của Quốc hội về ODA chưa được coi trọng.

 Thực tế là 20 năm qua, mặc dù đã xảy ra không ít vụ gây chấn động dư luận, nhưng Quốc hội chưa một lần giám sát tối cao về ODA. Với tư cách là các cơ quan của Quốc hội, phụ trách về kinh tế, về ngân sách, nhưng Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính ngân sách cũng chưa lần nào giám sát về chuyên đề này. Vào các năm 1999, 2003, Ủy ban Đối ngoại có 2 lần giám sát. Năm 2006 khi xẩy ra vụ PMU 18, Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội một lần nữa báo cáo lại các kiến nghị giám sát của lần trước. Đáng tiếc những kiến nghị rất đúng đắn này cho đến nay vẫn chưa được tiếp thu đầy đủ.

“Sai phạm trong dùng ODA chậm được khắc phục, góp phần đẩy nợ công lên sát ngưỡng mất an toàn”, bà Nga chỉ rõ.

Đề nghị ban hành luật quản lý, sử dụng ODA

Để hạn chế nợ công phát sinh do ODA, đại biểu Tiên cho rằng, cần tôn trọng nguyên tắc vàng là không vay ODA cho chi thường xuyên.

Còn đại biểu Nga thì đề nghị Quốc hội tiến hành giám sát ODA chỉ ra những khiếm khuyết trong chính sách, những nhóm lợi ích liên quan ở cả trong nước và nước tài trợ. Phân tích những mặt lợi và bất lợi của ODA, từ đó đề xuất chiến lược sử dụng có chọn lọc theo lộ trình giảm dần tiến đến chấm dứt ODA.

Vị đại biểu này cũng đề nghị Quốc hội ban hành luật quản lý sử dụng ODA theo đó chú trọng quy định chặt chẽ tiêu chí chấp nhận vốn ODA, công khai, minh bạch toàn bộ số vốn, công khai các dự án và quy trình phân bổ. Buộc phản biện độc lập trước khi quyết định quy định về trách nhiệm của Quốc hội về quyền của người dân, Mặt trận, báo chí và Hiệp hội chuyên ngành trong quá trình quyết định và thực thi ODA.

Bà Nga cũng lưu ý về các lĩnh vực ưu tiên sử dụng. Đây là vấn đề rất quan trọng để đảm bảo hiệu quả tiền vay, nhưng Điều 7, Nghị định 38 đã quy định quá rộng, ưu tiên hầu hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội và còn có quy định quét rất tùy nghi tại Khoản 9 là "một số lĩnh vực khác", quy định này dẫn đến thực tế phân bổ ODA dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, không tập trung được cao cho lĩnh vực mang tính đầu tàu và dẫn đường. Đồng thời, không kích thích được nội lực, tạo tâm lý trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực tìm kiếm các nguồn vốn khác.

Đặc biệt, cần nhận thức đúng về ODA và không coi thường khuyến cáo của chuyên gia. Nếu lạm dụng ODA thì sẽ để lại nhiều hệ lụy, nhưng điều này đã chưa được nhận thức đúng.

Các nghiên cứu cho thấy về chủ quan thì do năng lực quản trị khu vực công của chúng ta còn hạn chế, chưa kiểm soát được thất thoát, lãng phí, tham nhũng nên đã góp phần làm cho một số dự án mặc dù vay giá rẻ nhưng đã trở nên vô cùng đắt đỏ.

Cùng với xu hướng thích dùng ODA lại gắn với lợi ích nhóm tư duy nhiệm kỳ, bệnh thành tích ở một số nơi đã và đang khiến công trình ODA xuất hiện rất nhiều, nhưng một số công trình chất lượng, hiệu quả thấp.

Vì thế, bà Nga kiến nghị cần sử dụng có chọn lọc, hạn chế và có lộ trình chấm dứt ODA trong một tương lai gần./.

Phương Anh

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/