TIN HOẠT ĐỘNG NGÀNH
Một số dự báo về CPI năm 2017

Năm 2017, do giá cả trên thị trường quốc tế phục hồi, nhưng chậm và cầu trong nước chưa tăng mạnh, nên CPI trong năm 2017 được dự báo tiếp tục duy trì ở mức như năm 2016.

 

2016: năm kiểm soát lạm phát thành công

Theo Tổng cục Thống kê, CPI tháng 12/2016 tăng 0,23% so với tháng trước. CPI tháng 12/2016 tăng 4,74% so với tháng 12/2015, bình quân mỗi tháng tăng 0,4%. Tính chung CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015. Mức tăng CPI năm 2016 vẫn nằm trong giới hạn mục tiêu 5% mà Quốc hội đề ra.

Nhìn lại diễn biến CPI cả năm 2016, có thể thấy nổi lên một số điểm đáng chú ý như sau:

- Lạm phát chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ bản. Theo Tổng cục Thống kê, CPI năm 2016 đã tăng 4,74% so với tháng 12 năm trước, CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với năm 2015. Lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm: dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) năm 2016 tăng 1,87% so với cùng tháng 12/2015. Điều này phản ánh biến động giá lương thực, thực phẩm, giá xăng dầu và yếu tố điều hành giá cả qua việc điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục tăng cao.

- Năm 2016, chúng ta đã thực hiện thành công mục tiêu kiểm soát lạm phát mà Nghị quyết của Quốc hội đặt ra CPI dưới 5% (mức tăng CPI của 2 năm trước, 2014 là 4,05%; 2015 là 0,6%). Nếu so với mức lạm phát của các năm 2010 là 9,19%; 2011 là 18,58%; 2012 là 9,21% và 2013 là 6,6%, thì năm 2016, mức lạm phát thấp hơn và hợp lý cùng với mức tăng trưởng GDP của nền kinh tế là 6,24%. Lạm phát tiếp tục được kiểm soát đã góp phần quan trọng vào sự ổn định kinh tế vĩ mô.

- Xét về các nhóm hàng hóa, dịch vụ, nếu so với tháng 12/2015, có đến 09/11 nhóm hàng hóa giá tăng, cao nhất là nhóm dịch vụ y tế tăng 77,57%, dịch vụ giáo dục tăng 12,5%, thấp nhất là nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,35%; nhóm thiết bị đồ dùng gia đình tăng 1,02%; 02/11 nhóm giao thông giảm 1,12% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,72%.

- CPI khu vực nông thôn tăng 4,79%, trong khi đó, CPI khu vực thành thị chỉ tăng 4,67%. Điều này cho thấy, mặc dù thu nhập của người dân nông thôn thấp hơn thành thị, song CPI lại cao hơn, làm cho thu nhập thực tế của người dân nông thôn giảm tương đối so với khu vực thành thị, đời sống của nông dân vốn đã khó khăn hơn thành thị, nay lại càng khó khăn thêm.

- Chỉ số giá vàng giảm 10,98%, nhưng tại thời điểm hiện nay giá vàng trong nước cũng cao hơn giá vàng thế giới trên 5 triệu đồng/lượng. Điều này cho thấy, người dân không được hưởng lợi từ giá vàng thế giới. Nếu quản lý không tốt sẽ dẫn đến hiện tượng buôn lậu vàng qua biên giới, tác động tiêu cực tới tỷ giá ngoại tệ. Tỷ giá đô la Mỹ chỉ tăng 0,8%, biểu hiện sức mua đối ngoại của đồng tiền Việt Nam tương đối ổn định. Việc giá đô la Mỹ tăng như trên đã góp phần ổn định CPI.

Nguyên nhân do đâu?

Nguyên nhân của CPI năm 2016 tăng với mức độ thấp là sự cộng hưởng của cả các yếu tố khách quan và chủ quan. Cụ thể như sau:

Về khách quan: 

CPI năm 2016 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới có những diễn biến phức tạp. Kinh tế thế giới dần phục hồi, tuy nhiên, vẫn ở mức chậm và tiềm ẩn nhiều rủi ro, giá dầu có sự phục hồi, nhưng chậm; diễn biến phức tạp về tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Đông, sự kiện Brexit, khủng hoảng kinh tế tại Hy Lạp, sự thay đổi về địa - chính trị trên thế giới, biến đổi khí hậu toàn cầu... cũng gây xáo trộn nhất định đến thị trường trong nước. Bên cạnh đó, trong nước cũng xảy ra thiên tai, bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, vùng bị ô nhiễm môi trường (nhất là sự cố môi trường ở miền Trung do Formosa)... đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội, ảnh hưởng tới giá cả hàng hóa.

Về chủ quan:

Mặc dù bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp và trong nước còn nhiều khó khăn, nhưng nền kinh tế nước ta tiếp tục đà phục hồi và tăng trưởng. Hầu hết các ngành công nghiệp đạt mức tăng trưởng cao hơn cùng kỳ năm trước, tính chung cả năm, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước. Sản xuất nông nghiệp từng bước phục hồi, chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, thủy sản tiếp tục đạt mức tăng trưởng khá.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP cả năm 2016 ước thực hiện 33%, trong đó, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước tăng 15,3% so với  năm 2015. 

Dù sức mua đã được cải thiện trong năm qua, nhưng mức tăng vẫn chậm, cầu trong nước tuy phục hồi, nhưng chưa cao, người dân tiếp tục thắt chặt chi tiêu sau các năm suy giảm kinh tế. Tổng mức bán lẻ hàng hóa có nhiều cải thiện sau nhiều tháng tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước cho thấy, sức mua và cầu đang có xu hướng tăng, khách quốc tế đến Việt Nam tăng mạnh. Tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tính tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 7,6% (cùng kỳ năm 2015 tăng 8,3%).

Bên cạnh đó, xuất khẩu hàng hóa trong điều kiện hết sức khó khăn đã lấy lại đà tăng trưởng, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu ước tính tăng 8,6%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 4,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 8,7%. Cán cân thương mại hàng hóa năm 2016 đạt xuất siêu 2,68 tỷ USD.

Ngoài ra, các cân đối lớn về tài chính, tiền tệ, tín dụng cơ bản được bảo đảm và khá ổn định. Dự trữ ngoại hối tăng. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng, ký kết vốn ODA và vốn vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài đều tăng so với cùng kỳ năm trước. Cải cách thủ tục hành chính, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Hoạt động doanh nghiệp chuyển biến tích cực, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới và số doanh nghiệp dừng hoạt động quay trở lại tăng cao. Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ và lao động việc làm, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân và các lĩnh vực xã hội khác được chú trọng và đạt nhiều kết quả tích cực. An ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội ổn định.

Công tác quản lý, bình ổn giá tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương chỉ đạo triển khai quyết liệt thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP, ngày 07/01/2016 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2016. Công tác kiểm tra, kiểm soát việc chấp hành các quy định pháp luật về giá, các quy định về điều chỉnh giá, đăng ký, kê khai, niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết tiếp tục được tăng cường. Chương trình bình ổn thị trường đối với một số mặt hàng thiết yếu tiếp tục được thực hiện tại một số địa phương. Công tác quản lý, điều hành giá năm 2016 về cơ bản đã kiên trì, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước điều hành giá theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Có sự chủ động điều hành kiểm soát lạm phát của các bộ, ngành, địa phương, nhất là chủ động điều chỉnh giá các loại hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý, đặc biệt là giá dịch vụ y tế và giá dịch vụ giáo dục.

Đặc biệt, các bộ, ban, ngành đã hết sức chủ động, linh hoạt, bám sát tình hình, diễn biến của thị trường, phối hợp tốt, chặt chẽ và hiệu quả với các chính sách khác để kiểm soát, như: chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, chính sách thương mại, công tác điều hành giá… đã bảo đảm ổn định được kinh tế vĩ mô. Công tác quản lý, điều hành giá cơ bản đã đi đúng lộ trình đặt ra có sự điều chỉnh thích hợp không tác động đến việc tăng mặt bằng giá quá cao vào một thời điểm, cung - cầu hàng hóa được bảo đảm, không để tình trạng thiếu hàng. Điều hành giá một số mặt hàng quan trọng, thiết yếu đã có những bước tiến, làm thay đổi nhận thức trong xã hội.

Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát thị trường giá cả, không để xảy ra thiếu hàng, sốt giá, nhất là các mặt hàng thiết yếu, như: xăng dầu, chất đốt, lương thực, thực phẩm, đặc biệt là các mặt hàng phục vụ nhu cầu Tết...; xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm pháp luật về quản lý thị trường, pháp luật về quản lý giá, thuế, phí. Đã thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền công khai thông tin về giá nhằm tạo sự đồng thuận trong dư luận xã hội.

Bên cạnh những mặt tích cực, năm 2016, nền kinh tế nước ta còn nhiều khó khăn, thách thức. Các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Tiến độ thu ngân sách đạt thấp, nhất là thu ngân sách trung ương. Giải ngân vốn trái phiếu chính phủ chưa có nhiều cải thiện. Xuất khẩu nhóm hàng khoáng sản, dệt may giảm mạnh. Buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng kém chất lượng chưa được xử lý dứt điểm. Hoạt động của doanh nghiệp còn khó khăn. Diện tích rừng bị thiệt hại còn lớn. Đời sống một bộ phận người dân ở các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng bị thiên tai, bão lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, vùng bị ô nhiễm môi trường, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.

Dự báo CPI năm 2017

Nền kinh tế trong năm 2017 sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trước hết từ môi trường kinh tế thế giới tiềm ẩn nhiều yếu tố bất định, như: bất ổn chính trị (trong đó có sự kiện Anh rời EU) có thể ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và thương mại toàn cầu; việc FED nâng lãi suất cũng trở thành một nhân tố tạo sức ép lên điều hành chính sách tiền tệ; giá năng lượng và hàng hóa chủ chốt được dự báo phục hồi, nhưng vẫn còn biến động thất thường; chính sách tiền tệ phi truyền thống của các nền kinh tế lớn còn có thể dẫn đến những diễn biến khó lường đối với dòng vốn FDI; thiên tai, biến đổi khí hậu, xung đột vũ trang khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong khi đó, dư địa chính sách hạn hẹp (nhất là trong bối cảnh nợ công tăng nhanh), nguồn lực tài chính quốc gia hạn chế sẽ là những thách thức cho kinh tế Việt Nam.

Ngoài ra, khu vực nông nghiệp tăng trưởng chậm, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào khu vực FDI; tiến trình tái cơ cấu trên nhiều lĩnh vực còn chậm; hệ thống tài chính vẫn phụ thuộc nhiều vào khu vực ngân hàng, khả năng giảm lãi suất cho vay bị hạn chế bởi vấn đề nợ công, nợ xấu. Điều đó đang đặt ra nhiều thách thức cho mục tiêu phát triển kinh tế trong năm 2017, cũng như trong những năm tiếp theo.

Dự báo năm 2017, tăng trưởng kinh tế sẽ được cải thiện khá, có khả năng đạt mức 6,7%, nhờ những nỗ lực từ năm 2016 trong cải cách thể chế, cải thiện môi trường đầu tư, tạo xung lực mới cho khu vực tư nhân của nhiệm kỳ Chính phủ mới.

Về các chỉ số kinh tế có ảnh hưởng nhiều tới lạm phát, đó là: Chính sách tiền tệ và hối đoái linh hoạt, không có biến động mạnh về tỷ giá hối đoái; Lãi suất bình quân sẽ là 6%; Đầu tư sẽ tăng 6%-7%. Tốc độ tăng trưởng đầu tư cũng được cải thiện nhờ có sự tăng trưởng tín dụng theo dự kiến 18%-20% và giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cán cân thương mại tiếp tục thặng dư, tuy không lớn; Tiêu dùng cá nhân sẽ tiếp tục cải thiện nhờ lạm phát được kiểm soát, niềm tin của người tiêu dùng hồi phục và tiền lương cơ bản và lương tối thiểu tăng lên trong năm 2017.

Bên cạnh đó, sản xuất công nghiệp vẫn tiếp tục thu hút các dòng vốn FDI lớn... Theo lộ trình, giá các mặt hàng cơ bản, như: điện, nước, học phí, viện phí dự kiến sẽ tiếp tục được điều chỉnh vào năm 2017, từ đó, sẽ trở thành lực đẩy lên CPI. Tuy nhiên, do giá cả trên thị trường quốc tế tuy phục hồi, nhưng chậm và cầu trong nước chưa tăng mạnh, nên CPI trong năm 2017 được dự báo tiếp tục duy trì ở mức như năm 2016.  

Một số đề xuất

Để thực hiện được mục tiêu tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân khoảng 4%/năm trong năm 2017 như Nghị quyết của Quốc hội đề ra, theo chúng tôi, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Một là, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cần tiếp tục điều hành, giữ ổn định lạm phát cơ bản dưới 2%; bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, sử dụng đồng bộ, linh hoạt các công cụ của chính sách tiền tệ. Mức độ tăng trưởng tín dụng phải đi đôi với kiểm soát chất lượng tín dụng, đặc biệt ở một số ngành, lĩnh vực có yếu tố rủi ro cao. Quản lý có hiệu quả hơn thị trường ngoại hối. Phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa. Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, tập trung chống thất thu, thực hiện triệt để tiết kiệm, kiên quyết cắt giảm các khoản chi lãng phí, chưa thật cần thiết.

 Hai là, cần kiểm soát chặt chẽ phương án giá và mức giá đối với hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước định giá (điện, nước sạch, xăng dầu..); Giám sát chặt chẽ kê khai giá của doanh nghiệp đối với mặt hàng bình ổn giá, mặt hàng thuộc danh mục kê khai giá; Đánh giá kỹ tác động của việc điều chỉnh giá đối với những hàng hóa, dịch vụ (nếu có) đến tình hình kinh tế - xã hội và CPI của địa phương để có phương án và lộ trình điều chỉnh phù hợp, tránh điều chỉnh vào cùng một thời điểm đẩy CPI tăng cao.

Theo đó, các bộ, ngành phối hợp với các địa phương chủ động chuẩn bị nguồn hàng cho thị trường, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, ưu tiên các sản phẩm sạch, không để xảy ra thiếu hàng gây sốt giá, có kịch bản đối phó với điều kiện thời tiết khó khăn, triển khai chương trình bình ổn thị trường phù hợp với thực tế địa phương cho các dịp tiêu dùng cao điểm Tết Nguyên đán Đinh Dậu 2017.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, trong đó chú trọng hoàn thiện cơ chế quản lý và mức giá đối với các dịch vụ chuyển từ danh mục phí sang quản lý bằng cơ chế giá theo quy định tại Luật Phí, lệ phí năm 2015, Nghị định số 149/2016/NĐ-CP, ngày 11/11/2016 và pháp luật liên quan.

Đối với các loại phí được chuyển sang thực hiện cơ chế giá thị trường từ ngày 01/01/2017 mà Nhà nước không định giá, thì giá các dịch vụ cần được tính đúng, tính đủ các chi phí hợp lý phù hợp với thị trường và quy định của pháp luật đối với những dịch vụ này.

Đối với các loại phí được chuyển sang giá do Nhà nước định giá, cần tập trung xây dựng văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện từ ngày 01/01/2017 theo phân cấp của Chính phủ, chú ý kiểm soát hết sức thận trọng, trong đó cần chỉ đạo các đơn vị cung ứng dịch vụ báo cáo kết quả hoạt động, tình hình cân đối thu chi, đánh giá mức độ bù đắp các chi phí phát sinh để cung ứng dịch vụ từ số tiền thu phí theo mức phí hiện hành để xây dựng phương án giá dịch vụ.

Trường hợp những loại phí sang giá có tính chất đặc thù, cần phối hợp với Bộ Tài chính đề xuất phương pháp định giá, xây dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật, quy trình quy phạm, tính toán chi phí thực tế hợp lý để hình thành nên giá. Trường hợp mức giá cao hơn mức phí hàng hóa thì cần có lộ trình điều hành phù hợp bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

Bốn là, tiếp tục quản lý, điều hành giá các mặt hàng Nhà nước còn định giá, mặt hàng bình ổn giá (xăng dầu, điện, dịch vụ sự nghiệp công...) theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trường hợp phải điều chỉnh giá (nhất là dịch vụ y tế ngoài bảo hiểm y tế và dịch vụ giáo dục), các bộ, ngành, địa phương phải đánh giá tác động và cân nhắc mức độ, thời điểm điều chỉnh thích hợp để hạn chế tác động mạnh đến mặt bằng giá cả thị trường chung.

 Năm là, các bộ, ngành, địa phương theo chức năng nhiệm vụ thực hiện triệt để công tác đấu tranh chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại, kiểm soát chặt chẽ chất lượng thực phẩm tươi sống nhập khẩu; đặc biệt, kiểm soát chặt chẽ tại những khu vực địa bàn trọng yếu, giáp biên giới.

Sáu là, tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về quản lý, điều hành, thực hiện quy định pháp luật về giá để tạo sự đồng thuận trong nhân dân và dư luận xã hội, đồng thời, chống mọi loại thông tin đồn nhảm, tin thất thiệt gây xáo trộn thị trường, thậm chí phá hoại thị trường.

Bảy là, làm tốt công tác thu thập, phân tích và dự báo thông tin thị trường để kịp thời đề xuất các giải pháp bình ổn giá, kiềm chế lạm phát theo quy định của pháp luật./.

Tài liệu tham khảo

1. Tổng cục Thống kê (2016). Báo cáo Tình hình kinh tế - xã hội năm 2016, ngày 27/12/2016

2. Tổng cục Thống kê (2016). Báo cáo Tình hình giá cả quý IV và năm 2016, ngày 28/12/2016

Theo Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 1, tháng 1/2017

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/