TIN HOẠT ĐỘNG NGÀNH
Tổng quan thị trường và giá cả tháng 3 và quý I năm 2016

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 năm 2016 tăng 0,57% so với tháng trước; tăng 1,69% so cùng kỳ năm trước; tăng 0,99% so với tháng 12 năm trước; CPI bình quân quý I năm 2016 so với cùng kỳ năm trước tăng 1,25%.

 

PHẦN I. GIÁ TIÊU DÙNG, GIÁ VÀNG, GIÁ ĐÔ LA MỸ, LẠM PHÁT CƠ BẢN THÁNG 3 VÀ QUÝ I NĂM 2016

I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG VÀ GIÁ CẢ THÁNG 3 NĂM 2016

Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính, có 2 nhóm tăng: Thuốc và dịch vụ y tế tăng cao nhất với mức tăng 24,34%; Giáo dục tăng 0,66%. Có 9 nhóm hàng hóa và dịch vụ giảm: Giao thông giảm 3,64%; Đồ uống và thuốc lá giảm 0,54%; Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,48%; Hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,23%; May mặc, mũ nón, giầy dép giảm 0,17%; Bưu chính viễn thông giảm 0,1%; Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 0,1%; Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 0,01%; Thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,01%.

Theo quy luật tiêu dùng CPI tháng 3 hàng năm thường có xu hướng giảm do nhu cầu tiêu dùng sau Tết Nguyên Đán giảm, tuy nhiên CPI tháng 3 năm nay tăng chủ yếu do giá dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục tăng:

(1). Giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 1/3/2016, theo đó, giá các mặt hàng dịch vụ y tế áp dụng cho đối tượng có bảo hiểm y tế tăng 32,9% góp phần làm cho CPI tăng khoảng 1,27%.

(2). Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ một số tỉnh đã tăng học phí các cấp làm cho chỉ số giá nhóm giáo dục tăng 0,66%.

Bên cạnh đó, các yếu tố làm giảm CPI như:

(1). Nhu cầu tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ của người dân sau Tết Nguyên Đán đã giảm, giá các mặt hàng trở về mặt bằng trước Tết Nguyên Đán, chỉ số giá nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm 0,48% góp phần giảm CPI chung khoảng 0,16%;

(2). Giá xăng được điều chỉnh giảm vào ngày 18 tháng 2 năm 2016, giá xăng giảm 960đ/lít làm cho nhóm giao thông giảm 3,64% góp phần giảm CPI chung của tháng 3 khoảng 0,34%;

(3). Giá gas giảm 3,59% do còn chịu ảnh hưởng từ đợt giảm giá của tháng 2 năm 2016.

CHỈ SỐ GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 3 TRONG 10 NĂM GẦN ĐÂY

                                                                                                    Đơn vị tính:%

 

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

CPI tháng 3 so với tháng trước

-0,22

2,99

-0,17

0,75

2,17

0,16

-0,19

-0,44

0,15

0,57

CPI tháng 3 so với cùng kỳ năm trước

6,8

19,39

11,25

9,46

13,89

14,15

6,64

4,39

0,93

1,69

 

II. DIỄN BIẾN GIÁ TIÊU DÙNG THÁNG 3 NĂM 2016 CỦA MỘT SỐ NHÓM HÀNG CHÍNH

1. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống (-0,48%)

a/ Lương thực (+0,23%)

Mặc dù đã sau tháng Tết nhưng giá lương thực vẫn tăng 0,23% do các thương lái mua thóc gạo để giao hàng cho các hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký hiện còn khoảng 1,3 triệu tấn, trong khi đó, theo báo cáo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, tổng lượng gạo tồn kho của các doanh nghiệp thành viên tính đến ngày 18/2/2016 còn khoảng 826 ngàn tấn thấp hơn gần 500 ngàn tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Ngoài ra, Vụ Đông Xuân năm nay dự báo sẽ có sản lượng thấp hơn năm trước do bị hạn hán và xâm nhập mặn nên giá lúa gạo có xu hướng tăng dần.

Tại thị trường miền Bắc giá gạo tẻ thường ở mức 10.300đ/kg - 12.800 đ/kg, tại thị trường miền Nam giá gạo tẻ thường 11.400đ - 12.800đ/kg, gạo tẻ ngon từ 15.200đ/kg - 16.900đ/kg, gạo nếp thường là 18.600kg - 22.000đ/kg.

b/ Thực phẩm (-0,67%)

Sau Tết Nguyên Đán giá các mặt hàng thực phẩm đã giảm do nhu cầu về các mặt hàng này đã trở lại bình thường, cụ thể như sau:

- Giá thịt lợn giảm 1,76%, giá bán lẻ thịt mông sấn hiện từ 74.000 - 82.000 đ/kg (giảm 1.000-3.000 đ/kg); nạc thăn từ 79.000 - 85.000 đ/kg (giảm 4.000-5.000 đ/kg);

- Giá thịt gia cầm tươi sống giảm 0,64% so tháng trước. Giá gà ta hiện chỉ còn từ 90.000 - 102.000 đ/kg (giảm 5.000 - 8.000đ/kg); gà công nghiệp làm sẵn giá từ 42.000- 50.000 đ/kg (giảm 3.000 - 5.000 đ/kg);

- Giá thịt chế biến giảm 0,45%; giá trứng các loại giảm 2,44%;

- Giá rau tươi giảm 0,98% trước sau khi tăng mạnh ở tháng trước (ảnh hưởng bởi thời tiết rét đậm, rét hại), tháng này đến chu kỳ thu hoạch nên sản lượng rau tươi khá dồi dào.

c/ Ăn uống ngoài gia đình (-0,38%)

Thực phẩm giảm làm cho nhóm ăn uống ngoài gia đình giảm 0,38% trong đó giá suất ăn ở quán bình dân giảm 0,51%.

2. Nhóm đồ uống, thuốc lá (-0,54%)

Các mặt hàng về đồ uống và thuốc lá đều giảm do nhu cầu sau Tết giảm: đồ uống không cồn giảm 0,5%; rượu bia giảm 0,68%; thuốc lá giảm 0,33%.

3. May mặc, mũ nón và giầy dép (-0,17%)

Nhu cầu sau Tết giảm cộng với thời tiết ấm dần nên nhu cầu tiêu dùng của người dân về một số mặt hàng quần áo mùa đông giảm, giá các mặt hàng trong nhóm này đều có xu hướng giảm, chỉ riêng dịch vụ về may mặc và giày dép giá ổn định.

4. Nhà ở và vật liệu xây dựng (-0,01%)

Chỉ số giá nhóm hàng này giảm chủ yếu ở các mặt hàng sau:

- Chỉ số giá gas giảm 3,59% so với tháng trước do còn ảnh hưởng từ đợt giảm giá tháng trước. Giá gas bán lẻ trung bình ở mức 258.000 đồng/bình 12kg;

- Giá điện sinh hoạt giảm 0,02% so với tháng trước do nhu cầu sử dụng các thiết bị sưởi ấm giảm;

- Giá dầu hỏa được điều chỉnh giảm vào ngày 04/3/2016, làm cho chỉ số giá dầu hỏa giảm 4,85% so với tháng trước.

Riêng giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,24% chủ yếu tăng ở mặt hàng sắt thép do ngày 7/3/2016 Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 862 về việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời đối với mặt hàng phôi thép và thép dài nhập khẩu, theo đó giá thép trong nước được các doanh nghiệp đã điều chỉnh giá bán tăng từ 400 - 600đ/kg.

5. Thiết bị và đồ dùng gia đình (-0,01%)

Chỉ số giá nhóm hàng này khá ổn định, giảm nhẹ ở các mặt hàng đồ dùng gia đình do nhu cầu sau Tết giảm nhưng tăng ở mặt hàng dịch vụ gia đình, thuê người giúp việc (tăng 0,15%) do xu thế chung của thị trường lao động tăng lương vào đầu năm.

6. Thuốc và dịch vụ y tế (+24,34%)

Đây là nhóm hàng có chỉ số tăng cao nhất trong 11 nhóm hàng chính do từ ngày 1/3/2016, giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, theo đó giá các mặt hàng dịch vụ y tế áp dụng cho đối tượng có bảo hiểm y tế tăng 32,9% góp phần làm cho CPI tăng khoảng 1,27%.

7. Giao thông (-3,64%)

Nhóm giao thông có chỉ số giảm nhiều nhất trong 11 nhóm hàng chính, chỉ số giá nhóm này tháng 3 giảm chủ yếu ở mặt hàng xăng dầu và vé tàu hỏa:

- Giá xăng dầu trong nước giảm 7,71% so với tháng trước do ảnh hưởng từ đợt điều chỉnh giảm vào ngày 18/2/2016, giá xăng giảm 960 đồng/lít;

- Giá xăng dầu giảm làm cho chỉ số giá nhóm dịch vụ giao thông công cộng giảm 2,37% so với tháng trước;

- Chỉ số giá vé tàu hỏa giảm 2% do sau Tết Tổng công ty đường sắt Việt Nam giảm giá vé tàu hỏa.

8. Giáo dục (+0,66%)

Chỉ số giá nhóm giáo dục tăng chủ yếu ở nhóm dịch vụ giáo dục do cả nước có 6 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ.

9. Văn hóa, giải trí và du lịch (-0,1%)

Chỉ số giá nhóm này trong tháng giảm 0,1%  chủ yếu ở nhóm hàng du lịch trọn gói giảm 0,77% do nhu cầu  đi du lịch sau Tết giảm, riêng mặt hàng hoa tươi tăng mạnh vì trong tháng có ngày Quốc Tế Phụ nữ 8/3, các mặt hàng khác giá giảm nhẹ hoặc ổn định.

10. Chỉ số giá vàng (+4,87%)

Giá vàng trong nước biến động theo giá vàng thế giới, tính từ đầu năm đến nay giá vàng thế giới đã tăng khoảng 19%, chủ yếu do mối quan ngại của giới đầu tư về triển vọng kinh tế toàn cầu, sự bất ổn của thị trường chứng khoán và giá dầu giảm, cùng với với Cục Dữ trữ liên bang Mỹ (FED) trì hoãn việc tăng lãi xuất vào 6 tháng cuối năm nay làm gia tăng nhu cầu đối với kênh đầu tư an toàn này. Bình quân giá vàng tháng 3 tăng 4,87%, giá vàng trong nước ngày 15/3/2016 dao động quanh mức 3.365.000 - 3.890.000 đồng/chỉ vàng SJC.

11. Chỉ số giá đô la Mỹ (-0,38%)

Giá đô la Mỹ giảm nhẹ do dự trữ ngoại hối của Ngân hàng dồi dào, các doanh nghiệp chưa có nhu cầu nhiều về đô la Mỹ sau Tết Nguyên Đán, giá bình quân ở thị trường tự do tháng này ở mức 22.240-22.320 VND/USD.

II. LẠM PHÁT CƠ BẢN

Lạm phát cơ bản (CPI sau khi loại trừ lương thực, thực phẩm tươi sống; năng lượng và mặt hàng do Nhà nước quản lý bao gồm dịch vụ y tế và dịch vụ giáo dục) tháng 3 năm 2016 giảm 0,09% so với tháng trước, tăng 1,64% so với cùng kỳ; 3 tháng đầu năm 2016 so cùng kỳ tăng 1,76%.

                       Lạm phát chung, lạm phát cơ bản

                                                                                                       Đơn vị tính: %  

 

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

3 tháng năm 2016

Lạm phát

9,19

18,58

9,21

6,60

4,09

0,63

1,25

Lạm phát cơ bản

7,78

13,62

8,19

4,77

3,31

2,05

1,76

Trong quý I, yếu tố chi phí đẩy giảm đó là giá hàng hóa năng lượng và thực phẩm giảm, biến động của lạm phát chung phụ thuộc vào diễn biến giá các mặt hàng năng lượng, lương thực, thực phẩm, các mặt hàng Nhà nước quản lý nên lạm phát chung thấp hơn lạm phát cơ bản. Những năm gần đây, Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt và hiệu quả, mức lạm phát cơ bản có xu hướng giảm dần và ổn định, giúp ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững.

III. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG VÀ GIÁ CẢ QUÝ I NĂM 2016

CPI quý I tăng 1,25% so với cùng kỳ năm trước, đang ở mức thấp góp phần đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát của Chính phủ đặt ra, yếu tố chi phí đẩy tiếp tục giữ lạm phát ở mức thấp. Tháng 8 năm 2015, Tổng cục Thống kê đã trình Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chính Phủ về việc kể từ năm 2016, sử dụng chỉ số CPI bình quân cùng kỳ là thước đo lạm phát của nền kinh tế thay cho việc sử dụng CPI tháng 12 năm hiện hành so với tháng 12 năm trước là thước đo lạm phát của năm hiện hành. Từ nay đến hết năm 2016, giá dịch vụ y tế còn một đợt điều chỉnh vào tháng 7 năm 2016, giá dịch vụ giáo dục được điều chỉnh vào tháng 9 năm 2016, theo đó chỉ số CPI tháng 12 năm nay sẽ có mức tăng khá cao, nhiều khả năng vượt mức 5%, tuy nhiên, chỉ số CPI so bình quân sẽ được kiểm soát ở mức 5%. Vì vậy, Chính phủ cần tiếp tục chỉ đạo Bộ Tài chính, Bộ Công Thương theo dõi sát diễn biến giá cả, thị trường nhất là các mặt hàng thiết yếu (gạo, xăng dầu, sắt thép, phân bón..) khi tăng trở lại là áp lực cho công tác kiểm soát lạm phát, đồng thời tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường. Chính phủ và một số Bộ cần cân nhắc thời gian điều chỉnh tăng giá một số mặt hàng thiết yếu để tránh gây tác động lan tỏa về mặt tâm lý lên CPI.

So sánh CPI bình quân 1 tháng trong 3 tháng đầu năm

                                                                                                       Đơn vị tính:%

 

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

CPI

1,0

3,0

0,4

1,4

2,0

0,8

0,8

0,3

0,0

0,3

So sánh CPI quý I hàng năm so với cùng kỳ năm trước

                                                                                                       Đơn vị tính:%

 

Năm 2007

Năm 2008

Năm 2009

Năm 2010

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Năm 2016

CPI quý I so với cùng kỳ năm trước

 

 

6,58

 

 

16,37

 

 

14,47

 

 

8,51

 

 

12,79

 

 

15,95

 

 

6,91

 

 

4,83

 

 

0,74

 

 

1,25

 

1. Một số nguyên nhân gây tăng CPI trong Quý I năm 2016

(1). Do điều hành của Chính phủ

Giá dịch vụ y tế tăng theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 1/3/2016, nên giá các mặt hàng dịch vụ y tế tăng 11,88% góp phần làm cho CPI quý I tăng khoảng 0,46% so cùng kỳ năm trước.

Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02/10/2015 của Chính Phủ một số tỉnh đã tăng học phí các cấp làm cho chỉ số giá nhóm giáo dục quý I tăng 3,63% so cùng kỳ năm trước.

Mức lương tối thiểu vùng áp dụng cho người lao động ở các doanh nghiệp tăng từ ngày 1/1/2016 (Tính trung bình, mức lương tối thiểu vùng năm 2016 cao hơn mức lương tối thiểu vùng năm 2015 khoảng 250.000-400.000 đồng/tháng) nên giá một số loại dịch vụ như: dịch vụ sửa chữa đồ dùng gia đình, dịch vụ bảo dưỡng nhà ở, dịch vụ điện, nước; dịch vụ thuê người giúp việc gia đình có mức tăng giá từ 0,43%-1,46% so với tháng 12 năm trước và tăng từ 3%-8% so với cùng kỳ năm trước.

(2). Do yếu tố thị trường

Tháng 1, tháng 2 là tháng Tết Nguyên Đán nên nhu cầu mua sắm tăng cao, giá các mặt hàng lương thực, thực phẩm ở hai tháng đầu năm đều tăng tuy nhiên do giá xăng dầu giảm mạnh ở tháng cuối năm 2015 và tháng 1, tháng 2 năm 2016 nên chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống của tháng 1 và tháng 2 tăng không cao như những năm trước, chỉ tăng nhẹ lần lượt là 0,25% và 1,98%. Bình quân quý I, chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,62% so với cùng kỳ năm 2015, góp phần vào mức tăng chung của CPI khoảng 0,54%.

Giá các mặt hàng đồ uống và thuốc lá và các loại quần áo may sẵn tăng cao trong dịp Tết do nhu cầu tăng, Bình quân quý I chỉ số giá các nhóm này lần lượt tăng 2,38% và 2,62% so với cùng kỳ năm 2015;

Giá dịch vụ giao thông công cộng quý I tăng 0,64% so với tháng 12 năm trước do trong tháng Tết Nguyên đán một số đơn vị kê khai tăng giá chiều đông khách (trước Tết chiều từ Nam ra Bắc, từ thành phố về nông thôn và sau Tết là chiều ngược lại) từ 20% - 60% so với giá vé bán ngày thường nhằm bù đắp phần chi phí cho phương tiện chạy chiều vắng khách.

Nhu cầu du lịch tăng cao vào dịp Tết Nguyên Đán, nên chỉ số giá nhóm du lịch trọn gói tăng 1,07% so với tháng 12 năm trước và tăng 2,92% so với cùng kỳ năm trước.

2. Các yếu tố kiềm chế CPI

Với mức tăng 1,25% của Quý I năm nay so với cùng kỳ cao hơn nhiều so với mức 0,74% của quý I năm 2015, nhưng vẫn là mức tăng khá thấp so cùng kỳ của các năm trước đây do các nguyên nhân sau:

(1). Mặc dù trong quý I có Tết Nguyên Đán nhu cầu của các mặt hàng lương thực, thực phẩm tăng nhưng do giá xăng dầu và giá cước vận tải giảm, nguồn cung hàng hóa dồi dào đáp ứng nhu cầu mua sắm Tết của nhân dân nên giá lương thực, thực phẩm không tăng cao. Chỉ số giá nhóm Hàng ăn và dịch vụ ăn uống quý I năm 2016 (nhóm chiếm tỷ trọng lớn nhất trong 11 nhóm hàng chính) chỉ tăng 1,62% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn so với quý I của những năm trước (năm 2012 tăng 20,67%; năm 2013 tăng 1,55%; năm 2014 tăng 3,57%; năm 2015 tăng 2,14%).

(2). Giá các mặt hàng thiết yếu trên thế giới khá ổn định, một số mặt hàng có xu hướng giảm mạnh như giá nhiên liệu, chất đốt, sắt thép,…nên chỉ số giá nhập khẩu 3 tháng đầu năm so cùng kỳ đã giảm 8,85%, chỉ số giá xuất khẩu giảm 4,8%; chỉ số giá sản xuất công nghiệp (PPI) cũng giảm 1,01%.

(3). Giá nhiên liệu trên thị trường thế giới tháng cuối năm 2015 và hai tháng đầu năm 2016 giảm mạnh, giá dầu Brent bình quân quý I giảm gần 15% so với tháng cuối năm 2015 nên giá xăng dầu trong nước được điều chỉnh giảm, kéo theo chỉ số giá nhóm hàng “Giao thông” 3 tháng đầu năm 2016 giảm 8,41% so với cùng kỳ năm trước.

Giá gas sinh hoạt trong nước cũng được điều chỉnh theo giá gas thế giới, 3 tháng đầu năm 2016 giá gas giảm 11,98% so với cuối năm trước và giảm 14,64% so với cùng kỳ năm trước.

(4). Năm 2016 là năm đầu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, Quốc hội đã thông qua mục tiêu tổng quát của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, trong đó, tốc độ tăng giá tiêu dùng năm 2016 đặt ra dưới 5%. Theo đó, các ngành, các cấp đã và đang tích cực triển khai thực hiện:

- Ngành Công Thương phối hợp với các ngành liên quan chỉ đạo các doanh nghiệp thương mại dự trữ hàng hóa, tham gia bình ổn thị trường phục vụ Tết Nguyên Đán nên không xảy ra hiện tượng tăng giá đột biến vào dịp Tết.

- Bộ Tài chính tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, tổ chức các đoàn công tác liên ngành kiểm tra tình hình triển khai thực hiện công tác quản lý bình ổn giá tại một số địa phương. Về quản lý giá xăng dầu, Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Công thương điều hành kinh doanh xăng dầu phù hợp tình hình thị trường thế giới và trong nước góp phần thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.

- Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành lãi suất và tỷ giá linh hoạt phù hợp với tình hình kinh tế vĩ mô. Ngày 31/12/2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2730/QĐ-NHNN có hiệu lực từ ngày 4/1/2016 về việc công bố tỷ giá trung tâm của đồng Việt Nam với đô la Mỹ và biên độ giao dịch là +/-3%, theo đó tỷ giá trung tâm được điều chỉnh hàng ngày bám sát diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nước và quốc tế, tỷ giá trung tâm biến động có tăng, có giảm. Ngày 4/1/2016, tỷ giá trung tâm được công bố tăng so với tỷ giá liên ngân hàng của tháng trước, do đó, tỷ giá giao dịch trên thị trường đã tăng mạnh nhưng chỉ tăng trong tuần đầu sau đó đã giảm, diễn biến này cho thấy cách thức điều hành tỷ giá mới đã làm giảm động cơ đầu cơ, găm giữ ngoại tệ, khuyến khích tổ chức và cá nhân bán ngoại tệ ra lấy VND để hưởng lợi tức lớn hơn, giải phóng lượng ngoại tệ được đầu cơ, găm giữ trong thời gian qua. Giá vàng trong nước đã tiệm cận và biến động cùng xu hướng với giá vàng thế giới, không có tình trạng “sốt vàng” gây bất ổn kinh tế - xã hội, và lần đầu tiên vào ngày 4/3/2016 giá vàng trong nước thấp hơn giá vàng thế giới khoảng 150.000đồng/lượng. Chỉ số lạm phát cơ bản ổn định, 3 tháng lạm phát cơ bản tăng 1,76% so cùng kỳ.

(5). Bên cạnh đó, xu hướng tiêu dùng của người dân trong dịp Tết Nguyên Đán những năm gần đây thay đổi so với những năm trước, người dân không mua dồn dập hàng hóa vào những ngày giáp Tết, không mua tích trữ vì ngày mùng 1 Tết đã có chợ, do đó không tạo áp lực lên giá cả vào tháng Tết.

TCTK




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/