TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2016

Diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa toàn tỉnh đạt 48.527 ha, đạt 87,6% kế hoạch vụ; giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10/2016 đạt 1.953 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng đạt 20.468 tỷ đồng (tăng 8,1% so với cùng kỳ năm trước); Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 10/2016 đạt 2.479 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng đạt 22.609 tỷ đồng (tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước);...

 

I. Nông Lâm Thuỷ sản :

1. Nông nghiệp:

Sản xuất vụ mùa:

Tính đến 10/10/2016 diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa toàn tỉnh đạt 48.527 ha, đạt 87,6% kế hoạch vụ (bằng 86,2% so với cùng kỳ năm trước). Riêng cây lúa đạt 36.576 ha, đạt 96,5% kế hoạch vụ (bằng 91,4% so với cùng kỳ năm trước); cây bắp 5.337 ha, đạt 106,7% kế hoạch vụ (tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước).

Các loại cây trồng khác như: cây chất bột 882 ha (bằng 41,2% so với cùng kỳ năm trước); rau các loại 1.145 ha (bằng 32,7% so với cùng kỳ năm trước); đậu các loại 2.028 ha (bằng 56% so với cùng kỳ năm trước); cây công nghiệp ngắn ngày 1.524 ha (bằng 55,3% so với cùng kỳ năm trước), trong đó cây đậu phụng 1.372 ha (bằng 61% so với cùng kỳ năm trước), mè 152 ha (bằng 30,3% so với cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, tiến độ sản xuất vụ mùa 2016 chậm so với cùng kỳ năm trước do ảnh hưởng bởi vụ đông xuân và hè thu xuống giống chậm do thời tiết hạn hán kéo dài làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất vụ mùa 2016-2017.

Phát triển cây lâu năm:

Tổng diện tích cây lâu năm hiện có 102.749 ha (tăng 1,2% so với cùng kỳ năm trước), trong đó: cây ăn quả đạt 38.443 ha (tăng 3,8%). Một số cây trồng chính phát triển như sau:

- Thanh long: Tổng diện tích hiện có 27.181 ha (tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước); trong năm trồng mới 1.163 ha. Nhìn chung phát triển trồng mới năm nay không ồ ạt như những năm trước và tăng chủ yếu ở các địa phương có thế mạnh phát triển cây thanh long, có quỹ đất trồng cây lâu năm còn khá nhiều như: Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, Hàm Tân. Hiện nay đã kết thúc thu hoạch vụ chính, nhà vườn đang chuyển sang chong đèn trái vụ. Trong tháng 10 tình hình thời tiết trên địa bàn tỉnh mưa nhiều, không khí ẩm thấp trên cây thanh long xuất hiện nhiều sâu bệnh như: thán thư, vàng cành, thối cành, đốm nâu, đốm trắng (nấm tắt kè)… không thuốc đặc trị  làm chất lượng cũng như năng suất thu hoạch thanh long giảm. Giá thanh long hiện nay vẫn xoay quanh mức 11-12 ngàn đồng/kg (loại xuất khẩu), song do ảnh hưởng của sâu bệnh, tỷ lệ trái thanh long đạt chuẩn xuất khẩu rất ít, hiệu quả đạt thấp so với các năm trước.

- Cây điều: Tổng diện tích hiện có 16.273 ha (giảm 1,9% so với cùng kỳ năm trước). Do phần lớn diện tích điều trên địa bàn tỉnh đã già cổi, diện tích điều cao sản chưa được phát triển nhiều, đa số nông dân trồng điều chỉ áp dụng biện pháp như: bón phân, phun thuốc, làm cỏ, tỉa cành, nhưng chủ yếu theo kinh nghiệm nên hiệu quả không cao; một số nơi nhà vườn chặt bỏ diện tích thay thế cây khác hiệu quả kinh tế hơn. Diện tích điều toàn tỉnh dự kiến trong thời gian tới sẽ tiếp tục giảm.

- Cao su: Diện tích hiện có 42.573 ha (tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước). Hiện nay đang vào thời kỳ thu hoạch mủ, song do nhu cầu nhập khẩu cao su từ phía Trung Quốc không nhiều, lượng hàng tồn kho của các doanh nghiệp còn khá lớn, giá cao su đang đứng ở mức thấp nên đối với diện tích đang khai thác, nhà vườn chuyển từ chế độ cạo d2 (2 ngày cạo một lần) sang chế độ cạo d3 (3 ngày cạo một lần) nhằm giảm bớt chi phí và tăng thời gian nghỉ dưỡng cho cây; đối với diện tích chuẩn bị khai thác, đa số nhà vườn tạm dừng khai thác để tiếp tục chăm sóc, chờ giá tăng trở lại để khai thác tiếp.

- Cây tiêu: Tổng diện tích hiện có 1.628 ha (tăng 0,3% so với năm trước). Do giá tiêu tăng ổn định nên đã khuyến khích nhà vườn mở rộng diện tích và tập trung chăm sóc nhiều hơn. Giá bán trong vài năm trở lại đây ổn định ở mức cao (từ 180 - 200 ngàn đồng/kg). Hiện nay đã kết thúc vụ thu hoạch, nhà vườn đang tập trung bón phân, làm bồn, chăm sóc nhằm giúp cây phục hồi sau thu hoạch; khả năng sẽ phát triển thêm diện tích trồng mới trong thời gian tới.

*Tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng:

+ Trên cây lúa: Trong tháng 10/2016, bệnh rầy nâu gây hại trên cây lúa ở giai đoạn đẻ nhánh, đang trổ mật độ 1000-1500 con/m2 với diện tích nhiễm là 141 ha, gây hại rải rác ở huyện Tánh Linh, Tuy Phong. Bệnh đạo ôn lá gây hại trên lúa Hè thu giai đoạn đẻ nhánh tỷ lệ bệnh từ 5 – 7% với diện tích nhiễm 535 ha, phân bổ ở các huyện. Sâu cuốn lá gây hại rải rác trên lúa giai đoạn mạ, đẻ nhánh tỷ lệ bệnh 20-50%, diện tích nhiễm bệnh 40 ha ở các huyện Hàm Thuận Nam, Tuy Phong, Bắc Bình. Diện tích nhiễm bệnh khô đầu lá, cháy bìa lá, gây hại trên lúa vụ Hè thu giai đoạn đẻ nhánh, đang trổ 247 ha, phân bổ các huyện Tánh Linh, La Gi, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình. Bệnh lem lép hạt gây hại giai đoạn mạ diện tích nhiễm bệnh là 104 ha ở huyện Hàm Tân, Tuy phong, La Gi, Hàm Thuận Bắc.

+ Trên cây thanh long:, nhiễm bệnh thán thư 760 ha; bệnh kiến, bọ trĩ, bọ xít diện tích nhiễm bệnh 616 ha ở tất cả các huyện; bệnh vàng cành, cháy cành 378 ha phân bổ ở toàn vùng; bệnh thối cành, trái non diện tích nhiễm bệnh là 523 ha phân bổ ở các huyện La Gi, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình. Bệnh đốm nâu diện tích bị nhiễm là 5.422 ha, mức độ trung bình 5.373 ha, nặng 49 ha  phân bổ ở các huyện Tuy Phong, La Gi, Hàm Thuận Bắc, Bắc Bình, Hàm Thuận Nam, Phan Thiết, Hàm Tân, bệnh sên nhớt diện tích nhiễm bệnh là 197 ha chỉ xảy ra ở huyện Hàm Thuận Bắc. Chi cục Bảo vệ thực vật tỉnh khuyến cáo nhà vườn sử dụng các loại thuốc đặc trị nấm và tuyến trùng rễ, đồng thời sử dụng thêm các loại chất kích thích sinh trưởng và các loại phân bón có khả năng kích thích ra rễ để phòng và trị bệnh.

+ Trên cây điều: diện tích nhiễm sâu các loại 278 ha; Thán thư 125 ha; phân bổ ở các huyện Hàm Tân, La Gi, Tánh Linh.

+ Cây dưa, đậu: diện tích nhiễm sâu các loại là 58 ha; đốm lá gỉ sắt diện tích bị nhiễm là 75 ha phân bổ ở 4 huyện Bắc Bình, Tuy Phong, La Gi, Phan Thiết.

+ Cây rau: diện tích nhiễm sâu các loại là 30 ha; sương mai, thối nhũng là 23 ha phân bổ ở 4 huyện La Gi, Hàm Thuận Bắc, Phan Thiết, Tuy Phong.

Chăn nuôi:  

Trong năm, tình hình chăn nuôi trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, xu hướng chăn nuôi đang có sự chuyển dịch từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang chăn nuôi với quy mô gia trại, trang trại.

Tại thời điểm 01/10/2016: đàn trâu có 8.988 con (tăng 0,03% so với cùng kỳ năm trước); đàn bò có 163.412 con (giảm 0,05%); đàn heo có 285.160 con (tăng 2,12%); đàn gia cầm có 3.244 ngàn con (tăng 1,53%).

Đàn trâu, bò có xu hướng giảm dần do ảnh hưởng của quá trình đô thị hoá, phát triển diện tích trồng cây lâu năm, đồng cỏ chăn thả tự nhiên thu hẹp dần. Hiện nay toàn tỉnh có 1 trang trại nuôi bò (ở thị xã La Gi) với qui mô 85 con bò, tổng giá trị thu được 1,6 tỷ/năm. Qua đây cho thấy có thể mở rộng phát triển dần theo khuynh hướng từ tập quán chăn nuôi manh mún, nhỏ lẻ truyền thống sang chăn nuôi có qui mô công nghiệp để đạt được hiệu quả khá hơn.

Đàn heo phát triển ổn định. Trong 6 tháng đầu năm giá heo hơi tăng ở mức cao (47 – 50 ngàn đồng/kg), các đơn vị chăn nuôi trong và ngoài tỉnh đã không ngừng mở rộng tái đàn. Tuy nhiên từ giữa tháng 7/2016 đến nay giá heo hơi giảm mạnh (chỉ còn 41 – 42 ngàn đồng/kg), song với mức giá bán này hiện tại sau khi trừ chi phí người chăn nuôi vẫn có lãi. Một số địa phương như: Đức Linh, Hàm Tân đã tiến hành quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung với quy mô ngày càng lớn theo quy mô doanh nghiệp, trang trại; hiện nay toàn tỉnh có 10 doanh nghiệp chăn nuôi lợn (tập trung chủ yếu ở Đức Linh và Hàm Tân) với số lượng 28.436 con và 55 trang trại nằm rải rác ở các huyện với số lượng 64.814 con, chiếm 23,10% trong tổng đàn lợn của toàn tỉnh.

Đàn gia cầm có xu hướng tăng nhẹ do giá tiêu thụ ổn định, dịch bệnh được kiểm soát chặt chẽ. Ngoài các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ, toàn tỉnh hiện có 11 trang trại với 107 ngàn con và 01 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nuôi gia cầm với số lượng 20 ngàn con.

Công tác tiêm phòng; kiểm dịch động vật; kiểm soát giết mổ; phúc kiểm sản phẩm động vật được duy trì đều.

2. Lâm nghiệp:

Trồng rừng 10 tháng đạt 2.976 ha/ (đạt 122,1% kế hoạch năm); trong đó: 775 ha rừng sản xuất, 195 ha rừng phòng hộ và 2.005 ha rừng trồng ngoài quy hoạch (bao gồm cả rừng thay thế). Cơ cấu cây trồng tập trung chủ yếu là keo lai, keo lá liềm, bạch đàn, phi lao. Trồng cây phân tán 10 tháng đạt 680 ngàn cây (đạt 69% KH năm). Chăm sóc rừng đạt  5.050 ha (bằng 83,6% so với cùng kỳ năm trước), trong đó chăm sóc rừng phòng hộ 610 ha, chăm sóc rừng sản xuất 4.440 ha. Khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên đạt 5.845 ha (đạt 102% kế hoạch năm). Giao khoán bảo vệ rừng đạt 135.470 ha (đạt 114% kế hoạch năm); phần lớn diện tích rừng đang được các hộ dân bảo vệ tốt, không có tình trạng chặt phá cây rừng, lấn chiếm đất rừng làm rẫy xảy ra trong khu vực nhận khoán.

Công tác phòng chóng cháy rừng luôn được chú trọng. Đã thành lập 9 ban chỉ huy PCCR huyện, 72 ban chỉ huy PCCR xã, 346 tổ, đội PCCR ở các địa phương; xây dựng 941,3 km đường băng cản lửa, 5 chòi canh lửa; trang bị 163 máy móc thiết bị, 2.005 dụng cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huấn cháy khẩn cấp xảy ra. Ngoài ra còn bắt buộc các hộ dân sống trong khu vực có rừng ký cam kết bảo vệ rừng.

Từ đầu năm đến nay toàn tỉnh xảy ra 39 vụ cháy rừng với tổng diện tích bị thiệt hại là 79,2 ha. Hầu hết các vụ cháy chỉ là cháy thực bì, trảng cỏ không gây thiệt hại gì đến tài nguyên rừng và đã huy động 966 lượt người chữa cháy. Trong 39 trường hợp cháy, đã xử lý 01 vụ hành chính, 01 vụ hình sự thiệt hại 6,299 ha (tre, le, lồ ô) tại lâm phận BQLRPH Đức Linh. Nguyên nhân các vụ cháy trên chủ yếu do việc sử dụng lửa bất cẩn của người dân khi vào rừng canh tác, săn bắt động vật hoang dã, đốt than và các hoạt động dã ngoại...

Trong 10 tháng đã phát hiện 540 vụ vi phạm lâm luật, trong đó; phá rừng trái phép 12 vụ, khai thác gỗ và lâm sản khác 83 vụ, mua bán động vận hoang dã 3 vụ, vi phạm về phòng chống cháy rừng 2 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 162 vụ, chế biến gỗ và lâm sản khác 17 vụ, vi phạm khác 261 vụ. Đã xử lý 515 vụ (511 vụ vi phạm hành chính và 4 vụ vi phạm hình sự), tịch thu: 7 xe bò, 102 xe máy, 41 phương tiện khác; 543 m3 gỗ, tịch thu giá trị lâm sản ngoài gỗ trị giá 46 triệu đồng Tổng số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách 4,65 tỷ đồng.

3. Thủy sản:

- Nuôi trồng thuỷ sản: Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản gặp khó khăn do thời tiết môi trường nuôi không được thuận lợi, lượng mưa ít hơn năm trước, tôm nuôi vẫn còn bị một số bệnh chưa có phương pháp điều trị triệt để. Diện tích thuỷ sản đang nuôi hiện có đạt 1.075 ha (bằng 96,6% so với cùng kỳ năm trước) trong đó: Nuôi tôm đạt 416 ha (bằng 79,4% so cùng kỳ năm trước); Nuôi cá đạt 659 ha (tăng 12%). Nuôi lồng bè toàn tỉnh có 1.751 lồng (tăng 6,6% so với cùng kỳ năm trước), trong đó: Nước mặn 1.330 lồng, tập trung chủ yếu ở Phú Quý (1.081 lồng), Tuy Phong (293 lồng) và Phan Thiết (56 lồng); Nuôi nước ngọt 421 lồng, tập trung ở 2 huyện Tánh Linh (301 lồng), Đức Linh (120 lồng).

Sản lượng nuôi trồng tháng 10/2016 ước đạt 1.305 tấn; luỹ kế 10 tháng đạt 8.657 tấn (giảm 17,3% so với cùng kỳ năm trước), trong đó: Tôm thẻ chân trắng 4.820 tấn (giảm 32%).

- Khai thác thuỷ sản: Ngư trường khai thác trong năm nhìn chung khá thuận lợi. Sản lượng khai thác tháng 10/2016 ước đạt 21.101 tấn; luỹ kế 10 tháng đạt 174.801 tấn (tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước)

- Sản xuất giống thuỷ sản: Toàn tỉnh có 131 cơ sở sản xuất giống thủy sản, tập trung chủ yếu tại xã Vĩnh Tân  huyện Tuy Phong, các cơ sở sản xuất đã tiến hành nâng cấp và mở rộng quy mô, chú trọng công nghệ sản xuất tôm giống sạch, kháng bệnh, chất lượng cao, không sử dụng kháng sinh mà chủ yếu sử dụng các loại men vi sinh. Từ đầu quý 3/2016 đến nay thời tiết thuận lợi, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở một số tỉnh phía nam phát triển nên sản xuất giống thuỷ sản cung ứng cho thị trường tăng khá. Ước tháng 10/2016 các cơ sở kiểm dịch và xuất bán ra thị trường đạt 1.826 triệu post; luỹ kế 10 tháng đạt 18.404 triệu post (tăng 5,0% so với cùng kỳ năm trước).

Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản luôn được tăng cường và duy trì đều. Tuy nhiên số vụ vi phạm vẫn chưa có sự chuyển biến tích cực do ý thức trách nhiệm của người dân trong khai thác thuỷ sản biển chưa nhận thức sâu sắc vấn đề bảo vệ tài nguyên biển. Trong 10 tháng đã phát hiện 662 vụ vi phạm, thu nộp ngân sách hơn 4,5 tỷ đồng; trong đó: khoảng 85% số vụ vi phạm những loại hình khai thác như: Sử dụng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định ; khai thác hải sản nhỏ hơn quy định; giã cào bay trong thời gian cấm và sai vùng quy định.

II. Công nghiệp; Đầu tư phát triển :

1. Công nghiệp:

Tính theo giá so sánh 2010, dự ước giá trị sản xuất công nghiệp tháng 10/2016 đạt 1.953 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng đạt 20.468 tỷ đồng (tăng 8,1% so với  cùng kỳ năm trước); trong đó công nghiệp khai khoáng 743 tỷ đồng (giảm 19,1%); công nghiệp chế biến chế tạo 11.357 tỷ đồng (tăng 4%); sản xuất và phân phối điện đạt 8.266 tỷ đồng (tăng 18%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 102 tỷ đồng (tăng 3,7%).

Trong 10 tháng, các sản phẩm sản xuất tăng (giảm) so với cùng kỳ năm trước là: khai thác cát xây dựng (giảm 15% so với năm trước), đá xây dựng (giảm 7,1%), muối hạt (giảm 22,2%), thủy sản đông lạnh (tăng 1,2%), thủy sản khô (giảm 16,1%), nước mắm (tăng 0,7%), thức ăn gia súc (tăng 18,8%), gạch nung các loại (giảm 12%), hàng may mặc (tăng 4,1%), điện sản xuất (tăng 17,9%), nước máy sản xuất (tăng 8,8%), nước khoáng (tăng 18,4%), hạt điều nhân (giảm 11,7%), sơ chế mủ cao su (tăng 10,9%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (tăng 1,2%)

Kết quả trên cho thấy sản xuất và phân phối điện tăng trưởng khá; công nghiệp chế biến chế tạo đạt ở mức trung bình; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng thấp; công nghiệp khai khoáng giảm khá lớn.

Công nghiệp khai khoáng giảm so với năm trước do các nguyên nhân sau:

- Khai thác muối giảm do giá muối thấp, tiêu thụ khó khăn

- Khai thác đá giảm do không có nhiều công trình xây dựng mở rộng đường bộ như các năm trước

- Khai thác quặng gần như không đáng kể do hạn chế việc cấp phép

Hoạt động công nghiệp chế biến nhìn chung ổn định. Tuy các sản phẩm nước khoáng, chế biến thức ăn gia súc tăng trưởng khá, song các sản phẩm thuỷ sản đông lạnh, nước mắm, nước máy, hàng may mặc chỉ đạt được mức tăng trung bình và các sản phẩm thuỷ sản khô, gạch nung, hạt điều nhân giảm khá lớn nên tính chung mức tăng trưởng không cao so với năm trước. Hoạt động tiểu thủ công nghiệp ổn định và tiếp tục thu hút được nhiều sự quan tâm của khách hàng. Công tác khuyến công được duy trì thường xuyên.

Trong 10 tháng đã thu hút được 04 dự án vào Khu công nghiệp (trong đó có 02 dự án đầu tư nước ngoài). Luỹ kế đến nay các Khu công nghiệp đã thu hút được 58 dự án thứ cấp (trong đó có 19 dự án đầu tư nước ngoài). Các khu công nghiệp trong tỉnh đến nay có 44 dự án đi vào hoạt động sản (trong đó có 17 dự án có vốn đầu tư nước ngoài). Trong số các dự án đã đi vào hoạt động sản xuất có 36 dự án hoạt động thường xuyên, 8 dự án đang tạm ngừng và hoạt động cầm chừng do gặp khó khăn.

2. Đầu tư phát triển:

Vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước 10 tháng ước đạt 1.044 tỷ đồng (đạt 82,3% so với kế hoạch năm); trong đó: Vốn ngân sách cấp tỉnh 711 tỷ đồng (đạt 80% KH năm); Vốn ngân sách cấp huyện 273 tỷ đồng (đạt 92,8% KH năm); Vốn ngân sách cấp xã 60 tỷ đồng (đạt 69,6% KH năm).

Đăng ký kinh doanh:

Trong tháng 10/ 2016 (từ ngày 14/9/2016 đến ngày 15/10/2016) đã tiếp nhận, xử lý hồ sơ đăng ký và cấp mới cho 97 doanh nghiệp (trong đó gồm: Có 17 công ty TNHH 2 TV, 48 công ty TNHH 1 TV, 3 DNTN, 3 Công ty Cổ phần, 26 VPĐD); tổng vốn đăng ký 1.108 tỷ đồng. Giải thể 6 doanh nghiệp. Thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh 8 doanh nghiệp.

Đăng ký đầu tư :

Trong tháng 10/2016, trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 05 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư - VĐT: 53,9 tỷ đồng. Có 01 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư điều chỉnh, cụ thể:  UBND tỉnh cấp mới cho 03 dự án (lĩnh vực Dịch vụ: 01, Xăng dầu: 02) và cấp điều chỉnh 01 dự án (lĩnh vực Công nghiệp). Ban quản lý các KCN tỉnh cấp mới cho 01 dự án (Dự án Chế biến rau quả xuất khẩu của Công ty TNHH Trái cây Yuanxing Thâm Quyến, vốn đăng ký 22,3 tỷ đồng tại KCN Hàm Kiệm 1). Lũy kế 10 tháng trên địa bàn tỉnh Bình Thuận có 89 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư và Quyết định chủ trương đầu tư điều chỉnh (61 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư – VĐT: 27.364 tỷ đồng với tổng diện tích 483,3 ha, và 28 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư điều chỉnh – VĐT tăng thêm: 199 tỷ đồng).

III. Thương mại, Du lịch, Xuất nhập khẩu, Giao thông vận tải

1. Thương mại :  

Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 10/2016 đạt 2.479 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng đạt 22.609 tỷ đồng (tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước); doanh thu dịch vụ tháng 10/2016 đạt 1.228 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng đạt 10.895 tỷ đồng (tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước)

Trong 10 tháng đã tổ chức nhiều hội chợ triển lãm trong tỉnh; vận động và hỗ trợ các doanh nghiệp trong tỉnh tham gia hội chợ triển lãm tại các tỉnh, thành phố nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ nội địa cho các sản phẩm trong tỉnh; tổ chức cho các doanh nghiệp tham gia các gian hàng tại Phiên chợ hàng Việt về các huyện (Phú Quý, Hàm Thuận Bắc, Đức Linh, Tuy Phong).           

Thực hiện kiểm tra, kiểm soát thị trường, trong 9 tháng đầu năm lực lượng Quản lý thị trường kiểm tra, kiểm soát 1.513 vụ, phát hiện 791 vụ vi phạm, đã xử lý 789 vụ trong đó có 02 vụ buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu đã chuyển sang cơ quan Cảnh sát điều tra để tiếp tục điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tổng số tiền xử phạt vi phạm hành chính và thu nộp ngân sách Nhà nước trên 5,8 tỷ đồng

2. Du lịch :

Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển. Công tác xúc tiến, quảng bá du lịch duy trì đều. Đã vận động doanh nghiệp tham gia các Ngày hội, Liên hoan, Hội thi, Hội chợ du lịch, Chương trình xúc tiến du lịch trong và ngoài nước. Tham gia đoàn Tổng cục du lịch - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đi xúc tiến du lịch tại Hội chợ ITB Đức và chương trình xúc tiến du lịch Việt Nam tại thành phố Praha (Cộng hòa Séc).

Dự ước tháng 10/2016 lượt khách đến đạt 411,4 ngàn lượt khách; luỹ kế 10 tháng có 3.674 ngàn lượt khách, đạt 83,3% KH, tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách quốc tế đạt 411 ngàn lượt khách, đạt 85,6% KH, tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước) với 5.569,4 ngàn ngày khách, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước (trong đó khách quốc tế đạt 1.069,7 ngàn ngày khách; tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước); khách quốc tế đến từ Trung Quốc, Nga chiếm tỷ trọng khá cao; doanh thu du lịch tháng 10/2016 ước đạt 785 tỷ đồng; luỹ kế 10 tháng 7.257 tỷ đồng, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước.

3. Xuất nhập khẩu :

Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 10/2016 ước đạt 33,3 triệu USD; luỹ kế 10 tháng đạt 281,7 triệu USD, đạt 90% KH năm (tăng 6,4% so với cùng kỳ năm trước), trong đó nhóm hàng thuỷ sản đạt 107,9 triệu USD, đạt 84,3% KH năm (tăng 9,6%), hàng nông sản đạt 10,1 triệu USD, đạt 50,7% KH năm (tăng 12,3%), hàng hoá khác 163,7 triệu USD, đạt 98,5% KH năm (tăng 4,1%), trong đó hàng may mặc 118,2 triệu USD (tăng 4,9%) với một số mặt hàng: cao su 1.993 tấn; quả thanh long 6.605 tấn; thuỷ sản 15.158 tấn.

Xuất khẩu dịch vụ du lịch tháng 10/2016 ước đạt 16,9 triệu USD; luỹ kế 10 tháng đạt 141,6 triệu USD; đạt 87,4% KH năm; tăng 17,8% so với cùng kỳ năm trước. 

Nhập khẩu hàng hoá tháng 10/2016 ước đạt 17,1 triệu USD; luỹ kế 10 tháng đạt 136,7 triệu USD (giảm 4,9% so với cùng kỳ năm trước)

Kết quả trên cho thấy xuất khẩu hàng hoá khá ổn định. Tuy hàng may mặc tăng không cao so với năm trước nhưng mặt hàng thuỷ sản, nông sản tăng hơn năm trước đã đưa kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng. Mặt hàng cao su xuất tăng khá so với năm trước (giá trị xuất và lượng hàng tăng trên 80%), song chưa đạt được kế hoạch năm (giá trị xuất 10 tháng đạt 34,8% KH; lượng hàng đạt 62,3% KH); mặt hàng quả thanh long giá xuất khẩu không ổn định, kết quả xuất đạt thấp so với kế hoạch năm và giảm so với cùng kỳ năm trước.

4. Giao thông vận tải :        

Vận tải hàng hoá, hành khách ổn định, đáp ứng nhu cầu vận chuyển và đi lại của nhân dân. Ước tính khối lượng luân chuyển hàng hoá đường bộ tháng 10/2016 đạt 36,7 triệu tấnkm; luỹ kế 10 tháng 354 triệu tấnkm (tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước); luân chuyển hàng hoá đường thủy tháng 10/2016 đạt 87,7 ngàn tấnkm; luỹ kế 10 tháng 861 ngàn tấnkm (tăng 5,6%); luân chuyển hành khách đường bộ tháng 10/2016 đạt 85,7 triệu lượt ngườikm; luỹ kế 10 tháng 811,4 triệu lượt ngườikm (tăng 8,5%); luân chuyển hành khách đường thuỷ tháng 10/2016 đạt 327 ngàn lượt ngườikm; luỹ kế 10 tháng 3.233 ngàn lượt ngườikm (tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước).

Công tác tuần tra, kiểm soát đường bộ được duy trì thường xuyên, đã kịp thời xử lý ngăn chặn xe quá tải, quá khổ lưu thông trên các tuyến đường, giải tỏa các tụ điểm lấn chiếm lòng lề đường nhằm đảm bảo tối đa an toàn giao thông. Công tác kiểm tra  đường thuỷ luôn được chú trọng, nhất là các cơ sở có các phương tiện thủy nội địa có phương tiện vận tải hành khách đi lại, tham quan, vui chơi giải trí bằng đường thủy; đã phát hiện và lập biên bản vi phạm hành chính 03 trường hợp vi phạm “Không có đăng kiểm phương tiện vận tải khách” và “Không dán số hiệu theo quy định”.

IV. Thu ngân sách; Hoạt động tín dụng:

1. Thu ngân sách:

Thu ngân sách trên địa bàn 10 tháng ước đạt 7.051,2 tỷ đồng, đạt 93,9% dự toán năm, (tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước). Nếu loại trừ thu từ dầu thô và thuế xuất nhập khẩu thì kết quả thu nội địa đạt 4.307 tỷ đồng, đạt 85,3% dự toán năm, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thu thuế phí 3.955,4 tỷ đồng (đạt 87,5% DT năm; tăng 23,8% so cùng kỳ năm trước).

Trong thu ngân sách, dự ước các khoản thu 10 tháng đạt và tăng (giảm) so với cùng kỳ năm trước như sau: thu từ doanh nghiệp nhà nước 642,1 tỷ đồng (giảm 15,4% so với cùng kỳ năm trước); thu ngoài quốc doanh 638 tỷ đồng (tăng 5,8%); thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 871,7 tỷ đồng (tăng gấp 2,9 lần), thu thuế thu nhập cá nhân 237 tỷ đồng (tăng 16%); thuế bảo vệ môi trường 602,5 tỷ đồng (tăng gấp 1,7 lần); thu xổ số kiến thiết 462,5 tỷ đồng (giảm 0,9%); các loại phí, lệ phí 85,6 tỷ đồng (giảm 10,7%); thu tiền sử dụng đất 351,5 tỷ đồng (tăng 44,6%), thu từ dầu thô 1.196,3 tỷ đồng (giảm 49,8% so với cùng kỳ năm trước); thuế xuất nhập khẩu đạt 1.547,9 tỷ đồng (tăng gấp 7,2 lần so với cùng kỳ năm trước).

Riêng Khối huyện, thị xã, thành phố; kết quả thu 10 tháng ước đạt 1608,8 tỷ đồng, đạt 84,5% dự toán năm (tăng 6,7% so với cùng kỳ năm trước); trong đó: Phan Thiết đạt 576,2 tỷ đồng, đạt 76,3% dự toán năm (tăng 8,4% so với cùng kỳ năm trước), La Gi  đạt 117,9 tỷ đồng, đạt 78,1% dự toán năm (giảm 7,2%), Tuy Phong đạt 242,3 tỷ đồng, đạt 103,6% dự toán năm (tăng 33,5%), Bắc Bình đạt 84,2 tỷ đồng, đạt 76,6% dự toán năm (giảm 13,8%), Hàm Thuận Bắc đạt 182,9 tỷ đồng, đạt 103,9% dự toán năm (tăng 22,9%), Hàm Thuận Nam đạt 138,7 tỷ đồng, đạt 91,9% dự toán năm (tăng 11,1%), Tánh Linh đạt 76,9 tỷ đồng, đạt 80,2% dự toán năm (giảm 2,7%), Hàm Tân đạt 68,9 tỷ đồng, đạt 77,4% dự toán năm (giảm 10,6%), Đức Linh đạt 99,3 tỷ đồng, đạt 82,8% dự toán năm (giảm 14,3%), Phú Quý đạt 21,3 tỷ đồng, đạt 92,8% dự toán năm (giảm 11,7% so với cùng kỳ năm trước). Như vậy đến nay thu ngân sách ở huyện Tuy Phong và Hàm Thuận Bắc đã vượt dự toán năm; các địa phương khác đạt ở mức 76-92% dự toán năm.

Nhìn chung thu ngân sách đã có nhiều cố gắng. Một số khoản thu năm nay có tỷ trọng lớn trong dự toán đã tăng cao so với cùng kỳ năm trước nên đã tác động đến mức tăng thu khá là: thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là thu từ nhà thầu phụ Điện Vĩnh Tân), thuế bảo vệ môi trường (thu phí xăng dầu), thu tiền sử dụng đất, thuế xuất nhập khẩu; trong đó các khoản thu đến nay đã vượt dự toán năm là: thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (đạt 144,8% dự toán năm), thuế xuất nhập khẩu (tăng gấp 4,4 lần dự toán năm).

2. Hoạt động tín dụng:   

Mặt bằng lãi suất ổn định so với đầu năm. Lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,3-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,4-7,1%/năm, kỳ hạn trên 12 tháng là 6,0-7,2%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 7%/năm, các lĩnh vực khác từ 9,0-11%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10,5-11,5%/năm.

Các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến 30/9/2016, nguồn vốn huy động đạt 25.576 tỷ đồng (tăng 20% so với đầu năm); tổng dư nợ cho vay đạt 29.521 tỷ đồng (tăng 10% so với đầu năm); trong đó tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên: dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 14.877 tỷ đồng (chiếm 50,4% tổng dư nợ); dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 830 tỷ đồng (chiếm 2,81% tổng dư nợ); dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 6.398 tỷ đồng (chiếm 21,67% tổng dư nợ); dư nợ cho vay công nghiệp hỗ trợ đạt 3,7 tỷ đồng.

Ước đến 31/10/2016: vốn huy động đạt 25.833 tỷ đồng, tăng 21,3% so với đầu năm; dư nợ đạt 30.235 tỷ đồng, tăng 12,7% so với đầu năm.

Cho vay lĩnh vực thủy sản theo Nghị định 67: Đến 30/9/2016 các TCTD đã tiếp cận 169/176 tàu được UBND tỉnh phê duyệt, đã nhận 73 hồ sơ của khách hàng có nhu cầu vay đóng tàu theo Nghị định 67, trong đó đã ký hợp đồng tín dụng với 63 hồ sơ, đang xử lý 9 hồ sơ, từ chối cho vay 01 hồ sơ. Tổng số tiền cam kết cho vay theo hợp đồng tín dụng là 401,6 tỷ đồng, đã giải ngân được 362,7 tỷ đồng (dư nợ cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 164 tỷ đồng và cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 194,5 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 3,9 tỷ đồng); cho vay vốn lưu động 115 triệu đồng.

Cho vay hỗ trợ nhà ở: Đến 30/9/2016, dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở là 45.876 triệu đồng/110 khách hàng, trong đó dư nợ cho vay mua nhà ở xã hội là 1.584 triệu đồng/14 khách hàng, dư nợ cho vay để xây dựng mới, cải tạo và sửa chữa nhà ở là 44.292 triệu đồng/96 khách hàng.

Hỗ trợ người dân giải quyết các khó khăn do nắng hạn trên địa bàn: Đến ngày 30/9/2016 trên địa bàn đã thực hiện cơ cấu lại thời hạn trả nợ với dư nợ lũy kế đạt 30,3 tỷ đồng/104 khách hàng (01 doanh nhiệp và 103 hộ dân) gặp khó khăn do hạn hán; chưa có khách hàng nào có đề nghị thực hiện khoanh nợ, xóa nợ tại các TCTD.  

Công tác tiền tệ kho quỹ, thanh toán bù trừ điện tử và thanh toán điện tử liên ngân hàng được tổ chức thực hiện tốt. Thanh toán không dùng tiền mặt được quan tâm đẩy mạnh. Mạng lưới ATM và POS tiếp tục được duy trì hoạt động ổn định, đảm bảo chất lượng dịch vụ. Đến nay, toàn địa bàn có 153 máy ATM, tăng 10 máy so với đầu năm và 1.175 máy POS, tăng 128 máy so với đầu năm. Hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

Nhìn chung trong năm hoạt động tín dụng ổn định. Đã tiếp tục mở rộng theo hướng tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên nhất là cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn theo NĐ 55 và cho vay phát triển thủy sản theo NĐ 67, mặt bằng lãi suất cho vay giảm dần (giảm 0,5%/năm), tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh giảm bớt gánh nặng về chi phí, góp phần tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Công tác thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán bù trừ, thanh toán chuyển tiền điện tử tiếp tục được đẩy mạnh; các sản phẩm đa tiện ích thông qua dịch vụ thanh toán thẻ ATM, POS không ngừng phát triển mở rộng. Việc xử lý nợ xấu tiếp tục được quan tâm triển khai đồng bộ, đảm bảo hệ thống ngân hàng nói chung và hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân trên địa bàn tiếp tục phát triển ổn định.

Tuy nhiên quá trình thực hiện nhiệm vụ vẫn còn mặt hạn chế và gặp một số khó khăn, vướng mắc. Nợ xấu tuy vẫn ở mức thấp (1,17%) nhưng lại có xu hướng gia tăng so với đầu năm (tăng 0,31%), việc phối hợp xử lý thu hồi nợ qua thi hành án còn chậm; công tác thông tin tuyên truyền, hướng dẫn người dân tiếp cận thực hiện chính sách, nhất là chính sách tín dụng phục vụ nông nghiệp, nông thôn có lúc, có nơi còn chưa sâu kỹ đặc biệt là những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, dẫn đến người dân còn thắc mắc về mức vay, đối tượng vay và lãi suất áp dụng, xử lý nợ vay khi gặp nguyên nhân khách quan.

V. Văn hóa, Thể thao;  Giáo dục; Y tế, Xã hội:

1. Văn hoá, Thể thao:

Công tác tuyên truyền, cổ động phục vụ nhiệm vụ chính trị kịp thời. Trong tháng đã thực hiện 3.070 giờ phát thanh xe loa phóng thanh, cắt dán 2.950 m băng rôn khẩu hiệu, kẻ vẽ 1.920 m2 pa nô, 3.700 lá  và 3.800 cờ các loại tuyên truyền cổ động các nội dung: Kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống phòng cháy chữa cháy( 4/10/1951 - 4/10/2016) và 15 năm ngày toàn dân phòng cháy, chữa cháy; ngày Quốc tế Người cao tuổi; ngày Thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam; xây dựng nông thôn mới; phòng chống dịch cúm gia cầm; phòng chống lụt bão; phòng chống dịch bệnh sốt xuất huyết; HIV/AIDS; phòng chống bạo lực gia đình; an toàn giao thông; an toàn vệ sinh thực phẩm

Hoạt động văn hóa, nghệ thuật:  Đã tổ chức Hội thi Đờn ca tài tử Cải lương tỉnh Bình Thuận lần thứ IV- năm 2016 có 13 nhóm đờn ca tài tử trong toàn tỉnh tham gia. Huyện Hàm Tân thực hiện 04 chương trình văn nghệ phục vụ chính trị và đưa văn hóa về cơ sở. Huyện Phú Quý biểu diễn 02 buổi văn nghệ phục vụ chương trình gặp mặt các doanh nghiệp và chương trình tuổi trẻ Phú Quý làm theo lời Bác  thu hút 250 lượt người xem. Huyện Tuy Phong phối hợp với Ban Quản lý khu du lịch Bình Thạnh tỏ chức Liên hoan đờn ca tài tử cải lương. Huyện Đức Linh tổ chức Hội diễn nghệ thuật quần chúng các thôn, khu phố văn hóa lần thứ V-2016. Huyện Hàm Thuận Bắc tổ chức biểu diễn văn nghệ gắn với tuyên truyền lưu động về an toàn giao thông đợt 2/2016 tại các xã vùng cao. Huyện Hàm Thuận Nam tổ chức  chương trình văn nghệ phục vụ các em thiếu nhi các xã vùng sâu, vùng xa.

Hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc duy trì đều. Trong tháng Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận đón và phục vụ  93 đoàn, với 3.135 lượt người, trong đó có 24 lượt khách nước ngoài. Phục vụ 5 Lễ viếng, báo công, sinh hoạt chuyên đề về Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Bảo tàng tỉnh trong tháng đã thẩm tra lý lịch 87 hiện vật, cổ vật thuộc văn hóa Sa Huỳnh, Chămpa, Đông Sơn, Chu Đậu… của các nhà sưu tập tư nhân trên địa bàn tỉnh Bình Thuận trình Hội đồng khoa học Bảo tàng xem xét, đánh giá, lựa chọn trao đổi nhằm bổ sung hiện vật phục vụ trưng bày trong thời gian tới. Tiếp tục khảo sát, chọn điểm đào thám sát và khai quật một số địa điểm thuộc xã Hàm Đức, huyện Hàm Thuận Bắc. Phối hợp với Hội cựu Thanh niên xung phong tỉnh Bình Thuận và UBND xã Đa Kai huyện Đức Linh tổ chức khảo sát, tọa đàm nhằm thu thập tư liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, thiết lập hồ sơ khoa học di tích Bia ghi danh và Đài tưởng niệm Đoàn vận tải H50 xã Đa Kai. Đón và phục vụ 104 lượt khách đến tham quan và nghiên cứu tại Nhà trưng bày Bảo tàng Bình Thuận

Hoạt động thể thao quần chúng: Đã tổ chức các giải của Hội thao khối thi 5, Lễ hội Katê, Hội thao Công đoàn ngành Giáo dục và Đào tạo. Tổ chức giải trẻ và vô địch Taekwondo tỉnh Bình Thuận năm 2016 tại huyện Tánh Linh. Tổ chức giải Bida Carom 3 băng vô địch tỉnh Bình Thuận năm 2016; giải bóng đá bãi biển năm 2016; phối hợp với Báo Bình Thuận tổ chức giải Bóng bàn truyền thống - Báo Bình Thuận năm 2016 chào mừng kỷ niệm 21 năm ngày Du lịch Bình Thuận.

Thể thao thành tích cao:  Đội Taekwondo tham gia thi đấu giải vô địch quyền Taekwondo thế giới  tại Peru đạt được: 01 Huy Chương vàng, 02 Huy Chương bạc, 01 Huy Chương đồng. Đội Điền kinh, Đội tuyển Juitstu và Kurash tham gia thi đấu tại giải Đại hội thể thao bãi biển Châu Á tại Đà Nẵng, Đội Điền kinh đạt được Huy Chương bạc đồng đội.

2. Giáo dục:

Kết quả huy động vào các lớp đầu năm học 2016 - 2017 như sau:

- Tỷ lệ huy động cháu 05 tuổi ra lớp mẫu giáo là 99,52% (21.819/21.925), vượt 4,52% chỉ tiêu tỉnh giao, tăng 0,10% so với năm học trước.

- Tỷ lệ huy động cháu 6 tuổi vào lớp 1 là 99,99% (20.996/20.999), vượt 0,09% chỉ tiêu tỉnh giao, tăng 0,01% so với năm học trước.

- Tỷ lệ huy động học sinh vào lớp 6 là 97,1% (20.594/21.570), vượt 2,10% chỉ tiêu tỉnh giao, tăng 0,50% so với năm học trước.

- Tỷ lệ huy động học sinh vào lớp 10 là 74,35% (11.907/16.014).

Đến nay đã kiểm tra, công nhận được 06 trường học đạt chuẩn quốc gia, cụ thể: Mầm non: 02 trường; Trung học cơ sở: 02 trường; Trung học Phổ thông: 02 trường.

3. Y tế :

Các bệnh dịch truyền nhiễm được giám sát chặt chẽ, nhất là dịch bệnh cúm A H5N1, H7N9, Sởi, Sốt xuất huyết, Zika, Tay chân miệng, Sốt rét... Đã triển khai kịp thời kế hoạch phòng chống dịch bệnh, đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt công tác phòng chống dịch bệnh

Số cas mắc sốt xuất huyết trong tháng có 517 cas, tăng 8% so với tháng trước (479 cas), tử vong: 0 cas. Số cas mắc tay chân miệng: 87 cas, tăng hơn 4 lần so với tháng trước (21 cas), tử vong: 0. Công tác phòng, chống dịch bệnh được các đơn vị giám sát chặt chẽ nhất là các bệnh truyền nhiễm như: cúm A H1N1, H5N1, H7N9, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh tay chân miệng, bệnh Zika. Số cas mắc sốt rét: 5 cas, giảm 54,5% so với tháng trước (11 cas); số mắc sốt rét ác tính: 0, tử vong: 0 cas.

Số trẻ <1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ là: 2.138/24.159 trẻ, đạt tỷ lệ 8,8%. Số phụ nữ có thai được tiêm UV2+: 2.140/24.159, đạt 8,85%.

Công tác phòng chống Phong, phòng chống Lao, phòng chồng HIV/AIDS duy trì đều.

+ Phòng chống Phong : Số bệnh nhân hiện mắc bệnh phong: 19, số bệnh nhân mới phát hiện: 0, số bệnh nhân đang quản lý: 497, bệnh nhân phong mới bị tàn tật độ II: 0.

+ Phòng chống Lao: Đã khám 1.247, số bệnh nhân thu dung điều trị: 147. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới: 70.

+ Phòng chống HIV/AIDS 

Số nhiễm HIV mới: 14, tích lũy: 6.023; số chuyển AIDS mới: 7, tích lũy: 3.340; tử vong mới: 0, tích lũy: 2.044.

Công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm được triển khai tích cực. Trong tháng không có xảy ra trường hợp ngộ độc thực phẩm.

4. Lao động  Xã hội, Chính sách:

Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 1.900 lao động, lũy kế đến nay đã giải quyết việc làm cho 20.150 lao động, trong đó: cho vay vốn giải quyết việc làm: 1.080 lao động, cung ứng lao động cho các doanh nghiệp: 3.400 lao động, đưa người đi làm việc ở nước ngoài 70 lao động (gồm các thị trường: 11 Đài Loan, 35 Nhật Bản, 03 Hàn Quốc, 01 Uae và 20 Ả rập xâ út) và thông qua các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh: 15.600 lao động.

Tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp: 520 hồ sơ, nâng tổng số hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp là 4.859 hồ sơ; Ban hành Quyết định cho 586 lao động hưởng trợ cấp thất nghiệp, nâng tổng số Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp là 4.729 lao động.

Tổ chức tuyển mới và đào tạo nghề cho 8.219 người (đạt 82,19% so với kế hoạch năm); trong đó đào tạo nghề cho lao động nông thôn, lao động nữ, người khuyết tật là 5.676 (đạt 81,09% so với kế hoạch năm).

Vận động đóng góp Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được 6,847 tỷ đồng (đạt 114,1% so với kế hoạch), trong đó: Quỹ cấp tỉnh: 1,524 tỷ đồng (đạt  100,6% so với kế hoạch).

Đã hoàn chỉnh 249 hồ sơ đề nghị hỗ trợ nhà ở người có công; Hoàn chỉnh 52 hồ sơ đề nghị truy tặng danh hiệu Bà mẹ VNAH.

Thực hiện chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 120 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công (01 người hoạt động cánh mạng trước ngày 1/1/1945, 108 người hoạt động cách mạng bị địch bắt tù đày, 02 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học, 01 vợ liệt sỹ lấy chồng khác, 06 thân nhân hưởng tiền tuất hàng tháng). Giải quyết trợ cấp cho 15 thân nhân thờ cúng liệt sỹ. Cấp Bảo hiểm y tế cho 11 thân nhân người có công. Cấp ưu đãi giáo dục cho 04 thân nhân người có công.

Thực hiện chế độ cho các đối tượng ngoài Pháp lệnh Ưu đãi người có công: Cấp Bảo hiểm y tế cho 35 trường hợp (25 trường hợp theo Quyết định số 62, 10 trường hợp theo Quyết định số 290).

 Huy động Quỹ Bảo trợ trẻ em 1.789 triệu đồng (đạt 89,45% KH năm); Đã tổ chức khám lọc trẻ em bi bệnh tim bẩm sinh: 78 trẻ, trong đó chỉ định phẩu thuật là: 22 trẻ;

5. Phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số:

Trong  tháng 10/2016 đã tổ chức 5 lớp tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã Phan Dũng (Tuy Phong); Phan Lâm, Phan Điền (Bắc Bình); Đông Giang, La Dạ (Hàm Thuận Bắc); phát hành hơn 2.500 tờ rơi với 250 người tham dự.

Thực hiện chính sách đầu tư ứng trước như sau:

- Bắp lai, lúa nước: Tiếp tục cung ứng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho các hộ đồng bào đầu tư lúa nước tại xã Phan Dũng. Đồng thời, tổ chức thu mua bắp lai thương phẩm cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh đến nay đã thu mua được 600 tấn với giá trị hơn 1,8 tỷ đồng.

- Cao su: Hướng dẫn đồng bào chăm sóc, khai thác mủ cao su. Đến nay đã thu mua được trên 50 tấm mủ bèo với giá trị 490 triệu đồng. (Riêng cao su theo Quyết định 1592: vẫn tiếp tục hướng dẫn đồng bào chăm sóc, dọn cỏ cây cao su và phòng trừ sâu bệnh. Tổ chức bón phân đợt 2 năm 2016).

6. Tai nạn giao thông:

Trong tháng 9/2016 (từ 16/8 đến 15/9/2016), tai nạn giao thông trong địa bàn xảy ra như sau:

- Số vụ tai nạn giao thông: 52 vụ (so với tháng trước tăng 10 vụ). So với cùng kỳ năm trước giảm 11 vụ. Luỹ kế 9 tháng đầu năm: 423 vụ (giảm 66 vụ so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, đường sắt 2 vụ (giảm 8 vụ so với cùng kỳ năm trước).

- Số người bị thương: 49 người (so với tháng trước tăng 12 người). So với cùng kỳ năm trước giảm 4 người. Luỹ kế 9 tháng đầu năm: 377 người (giảm 71 người so với cùng kỳ năm trước).

- Số người chết: 17 người (so với tháng trước giảm 3 người). So với cùng k năm trước giảm 9 người. Luỹ kế 9 tháng đầu năm: 177 người (so với cùng kỳ tăng 4 người).

7. Thiên tai lũ lụt:

Từ ngày 22/9 đến ngày 11/10/2016 trên địa bàn huyện Bắc Bình đã mưa to, có nơi mưa rất to, kết hợp với lượng nước mưa ở thượng nguồn sông Mao, sông Đồng, Cà Giây, Tầm Ru, Chà Vầu, Nha Mưng đổ về, gây vỡ 02 đoạn bờ kênh hệ thủy lợi Úy Thay – Đá Giá đoạn thuộc xã Phan Điền (mỗi đoạn dài hơn 10 mét), thêm lượng nước tràn về hạ lưu gây lũ, ngập lụt trên diện rộng trên địa bàn huyện Bắc Bình; trong đó, các xã bị thiệt hại nặng là: Phan Hòa, Phan Hiệp, Hải Ninh và Phan Rí Thành.

Nước lũ gây ngập lụt, tràn vào khu dân cư làm ngập, sập nhà ở của nhân dân 02 xã Phan Hòa và Phan Rí Thành; đặc biệt, lượng nước lũ tràn tuyến Quốc lộ IA với chiều dài hơn 300 mét, cao từ 0,5 – 1,2 mét làm hư hỏng, sạt lở và ách tắc giao thông trên tuyến Quốc lộ IA.

Về tình hình thiệt hại:

- Về người: Chết 01 người

- Về nhà ở: Ước giá trị thiệt hại 1.780 triệu đồng, gồm:

       + Tốc mái 10 nhà chòi rẫy (thuộc khu vực Tà Bo - xã Phan Hòa) do gió lốc xoáy cục bộ trong mưa. Ước giá trị thiệt hại 100 triệu đồng.

       + Sập 03 căn nhà (thôn Bình Long - xã Phan Rí Thành) do nước lũ làm xói lở chân tường. Ước giá trị thiệt hại 50 triệu đồng.

       + Ngập nước 800 căn nhà (nhà thôn Bình Long - xã Phan Rí Thành 500 căn nhà, thôn Bình Thắng - xã Phan Hòa 300 căn nhà); trong đó có 126 căn nhà bị ngập sâu đến 1,5 mét, phải thực hiện di dời người và tài sản số hộ dân bị ngập sâu đến nơi an toàn (Phan Hòa 100 căn nhà, Phan Rí Thành 26 căn nhà). Ước giá trị thiệt hại 1.630 triệu đồng.

- Về diện tích nông nghiệp bị thiệt hại: Tổng diện tích cây trồng bị ngập thiệt hại là 2.277 ha, mức độ thiệt hại trên 70%, gồm:

       + Diện tích lúa thiệt hại: 1.995 ha; ước giá trị thiệt hại 10.200 triệu đồng; trong đó: lúa đang thời kỳ thu hoạch: 160,2 ha; lúa từ 7-10 ngày tuổi: 1.834,8 ha

       + Hoa màu khác: (bắp, đậu các loại, sen lấy hạt,...): 229 ha; ước giá trị thiệt hại 2.300 triệu đồng

       + Cây Thanh Long: 53 ha; ước giá trị thiệt hại 13.500 triệu đồng.

- Về Thủy lợi: Ước giá trị thiệt hại 4.300 triệu đồng

+ Sạt lở 02 đoạn kênh hệ thống Úy Thay – Đá Giá (thuộc xã Phan Điền); khối lượng đất bị trôi khoảng: 2.000 m3, bê tông bị sạt lở, trôi, hư hỏng: 200 m3. Ước giá trị thiệt hại 900 triệu đồng.

+ Sạt lở, hư hỏng tuyến kênh đoạn từ đập Măng đến đập Bà Nao, hệ thống Úy Thay – Đá Giá, chiều dài: 7.000 mét; Ước giá trị thiệt hại 900 triệu đồng.

+ Hư hỏng tuyến kênh Nha Mưng, chiều dài: 7.000 mét; Ước giá trị thiệt hại 500 triệu đồng.

+ Hư hỏng hệ thống kênh Chà Vầu, chiều dài: 9.200 mét; bồi lắng trước đập Trường An, đập Ma Giăng 1 và 2; Ước giá trị thiệt hại 1.500 triệu đồng.

+ Sạt lở, bồi lấp hệ thống kênh Bà Nao, chiều dài: 5.000 mét; Ước giá trị thiệt hại 500 triệu đồng.

- Về giao thông:

+ Ngập 300 m đường Quốc lộ 1A (khu vực thôn Bình Long – xã Phan Rí Thành) gây hư hỏng mặt đường, sạt lở mái taluy

+ Sập hoàn toàn cầu gỗ Lệ Ngân (dài 10 m) thuộc Sông Đồng.

+ Sạt lở 9 km đường giao thông nội đồng và cầu cống thuộc xứ đồng Chà Vầu, Nha Mưng, Tà Bo, ... Ước giá trị thiệt hại 11.000 triệu đồng.

* Ước tổng giá trị thiệt hại toàn huyện khoảng: 43.080 triệu đồng./.

Cục Thống kê Bình Thuận.

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/