TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế xã hội tháng 11 năm 2018

Tính đến ngày 15/11/2018, sơ bộ diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa toàn tỉnh đạt 60.599,6 ha, đạt 108,7% so kế hoạch vụ, trong tháng, các loại cây lâu năm phát triển ổn định. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11/2018 (tính theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.356,7 tỷ đồng, tăng 9,10% so tháng trước và tăng 13,06% so cùng kỳ năm trước. Ước thu ngân sách tháng 11/2018 đạt 920 tỷ đồng; luỹ kế 11 tháng 9.625,4 tỷ đồng, đạt 113,24% dự toán năm (tăng 8,40% so cùng kỳ năm trước)...

            I. Nông - Lâm - Thuỷ sản

1. Trồng trọt

* Cây hàng năm:

Sản xuất vụ Mùa triển khai trong điều kiện mưa lũ ở các huyện phía Nam và nắng hạn cục bộ ở một số huyện phía Bắc của tỉnh; cuối tháng 9, do được hưởng các đợt mưa vừa, đều khắp, thời tiết trở nên thuận lợi, các địa phương tích cực gieo trồng xuống giống đồng loạt, một số địa phương kéo dài thời gian gieo trồng cho đến 15/10 mới kết thúc do ảnh hưởng bởi hạn cục bộ. Riêng diện tích rau màu như bắp, đậu các loại, rau các loại, đậu phộng,... do lượng mưa năm nay ít và đến muộn, đã qua thời vụ gieo trồng nên một số diện tích không xuống giống được.

Tính đến ngày 15/11/2018, sơ bộ diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ mùa toàn tỉnh đạt 60.599,6 ha, đạt 108,7% so kế hoạch vụ và bằng 96,99% so vụ cùng kỳ. Riêng cây lúa 43.650 ha, bằng 112,5% so kế hoạch vụ và bằng 98,6% so vụ cùng kỳ; diện tích bắp 5.275,2 ha bằng 87,9% so kế hoạch và bằng 94,69% so cùng kỳ; diện tích cây chất bột 2.614,5 ha, trong đó cây mỳ 2.055,1 ha, đạt 158,1% so kế hoạch vụ và bằng 61,13% so vụ cùng kỳ; diện tích rau các loại 2.522,9 ha, bằng 100,9% kế hoạch vụ và tăng 0,7% so vụ cùng kỳ; diện tích đậu các loại 2.843 ha, bằng 81,2% so kế hoạch vụ và bằng 83,3% so vụ cùng kỳ; diện tích cây công nghiệp ngắn ngày 3.133,7 ha, đạt 127,9% so kế hoạch vụ và tăng 28,3% so vụ cùng kỳ, trong đó cây đậu phụng đạt 1.972,5 ha, cây mè đạt 445 ha.

* Cây lâu năm:

Trong tháng, các loại cây lâu năm phát triển ổn định. Tuy nhiên, thị trường tiêu thụ, giá sản phẩm đầu ra một số cây như cao su, tiêu ở mức thấp đã ảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất và phát triển diện tích cây lâu năm. Kết quả phát triển một số cây lâu năm đến tháng 11/2018 như sau:

Thanh long: Hiện đang là mùa cao điểm nhà vườn chong đèn trái vụ để phục vụ Tết Nguyên đán sắp đến. Trong tháng tình hình thời tiết đang chuyển mùa, không khí lạnh ít nhiều ảnh hưởng đến việc chong đèn của nhà vườn. Do vừa kết thúc chính vụ, sản lượng thấp nên giá thanh long trong tháng tăng trở lại. Đến thời điểm 15/11/2018, diện tích thanh long VietGAP trên toàn tỉnh đạt 10.072,89 ha đạt 102,78% kế hoạch (Hàm Thuận Nam 5.917,77 ha; Hàm Thuận Bắc 3.511,33 ha; Bắc Bình 337,04 ha; Phan Thiết 90,84 ha; Hàm Tân 111,11 ha; La Gi 104,80 ha).

Cây điều: Trong tháng, đang là thời điểm chuẩn bị ra hoa nên nhà vườn tập trung chăm sóc, bón phân chuẩn bị cho vụ thu hoạch sắp đến, đồng thời tổ chức trồng mới điều ghép năng suất cao để tăng hiệu quả kinh tế.

Cao su: Hiện đang trong thời điểm thu hoạch, giá cao su đang ở mức thấp, nhà vườn gần như không có lãi, do thị trường xuất khẩu cao su vẫn chưa có nhiều chuyển biến tích cực, đây là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến việc phát triển diện tích mới trên địa bàn tỉnh.

Cây tiêu: Hiện đã kết thúc vụ thu hoạch, các địa phương đang tập trung chăm sóc chuẩn bị cho vụ tiếp theo. Do giá tiêu giảm, bên cạnh đó cây tiêu thường phát sinh nhiều loại bệnh, nhất là bệnh chết nhanh, chết chậm (hiện nay vẫn chưa có thuốc đặc trị) nên người dân đầu tư cầm chừng; dự báo trong thời gian tới diện tích trồng mới tăng không đáng kể.

Các loại cây lâu năm còn lại đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể,…

* Tình hình dịch bệnh trên cây trồng:

- Cây lúa: Bệnh đạo ôn lá diện tích nhiễm trong kỳ 803 ha, giảm 1.235 ha so cùng kỳ năm trước. Ốc bươu vàng gây hại trong kỳ 355 ha, tăng 305 ha so cùng kỳ; Rầy nâu gây hại 262 ha, giảm 301 ha so cùng kỳ; sâu cuốn lá gây hại 177 ha, giảm 1026 ha so cùng kỳ; Bọ trĩ gây hại 185 ha, tăng 185 ha so cùng kỳ; các đối tượng khác gây hại rãi rác không đáng kể.

- Thanh long: Diện tích bệnh đốm nâu nhiễm trong kỳ là 4.444 ha, giảm 718 ha so cùng kỳ năm trước. Các đối tượng khác gây hại không đáng kể.

- Cây mì: Bệnh khảm lá virus với diện tích nhiễm 105 ha chưa được tiêu hủy. Cụ thể, Huyện Bắc Bình diện tích nhiễm 83 ha; huyện Hàm Thuận Nam diện tích nhiễm 9,7 ha đã tiêu hủy xong; huyện Hàm Tân diện tích nhiễm 17 ha; Thị xã  La Gi diện tích nhiễm 11 ha đã tiêu hủy xong.

* Công tác thủy lợi phục vụ sản xuất:

Đã tập tập trung triển khai các biện pháp quản lý, khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn nước hiện có. Tính đến ngày 10/11/2018, tổng diện tích gieo trồng vụ mùa 2018 được tưới từ nguồn nước thủy lợi, thủy điện trên toàn tỉnh đạt 48.180,7 ha đạt 97,8% so kế hoạch; trong đó, cây lúa và cây màu 30.152,7 ha đạt 96,5% so kế hoạch; cây thanh long 18.027,9 ha đạt 100% so kế hoạch.

           Đến 15 giờ 00’ ngày 26/11/2018, mực nước một số hồ chứa như sau:

Sau cơn bão số 9 (26/11/2018), có 09 hồ chứa đạt và vượt mực nước dâng bình thường, còn lại cũng gần đạt cao trình mực nước dâng bình thường.

2. Chăn nuôi

Tình hình chăn nuôi tiếp tục có sự chuyển dịch tích cực từ chăn nuôi nhỏ lẻ sang hình thức chăn nuôi trang trại, gia trại theo hướng công nghiệp và bán công nghiệp có kiểm soát an toàn dịch bệnh và môi trường. Tại thời điểm 15/11/2018, số lượng gia súc, gia cầm toàn tỉnh:

Đàn trâu, bò: Có 175.872 con trâu, bò tăng 1,83% so cùng kỳ năm trước. Trong đó đàn trâu 8.976 con, tăng 0,7% so cùng kỳ; đàn bò 166.896 con, tăng 1,93% so cùng kỳ. Chăn nuôi trâu, bò tiếp tục duy trì và phát triển, tạo thu nhập ổn định cho nhiều hộ nông thôn.

Đàn lợn: Có 278,51 ngàn con tăng 4,86% so cùng kỳ năm trước. Đàn lợn của tỉnh được phục hồi do giá thịt lợn hơi trên thị trường tiếp tục tăng trong những tháng gần đây, hiện nhiều đơn vị chăn nuôi tập trung mở rộng phát triển tổng đàn.

Đàn gia cầm: Đàn gia cầm phát triển khá thuận lợi. Toàn tỉnh có 3.542,6 ngàn con tăng 5,37% so cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân tăng do giá đầu ra các loại gia cầm ổn định, tình hình dịch bệnh được kiểm soát tốt, tạo điều kiện khuyến khích người chăn nuôi mở rộng phát triển.

* Công tác phòng, chống dịch:

Hiện nay trên địa bàn tỉnh chưa xuất hiện các ổ dịch bệnh nguy hiểm ở động vật như dịch tả lợn Châu Phi, cúm gia cầm, lở mồm long móng gia súc, tai xanh ở heo và một số dịch bệnh thông thường khác. Tuy nhiên, thời tiết có nhiều diễn biến phức tạp, nắng nóng kết hợp mưa ẩm đã ảnh hưởng tiêu cực tới sức khoẻ, làm giảm sức đề kháng của vật nuôi. Để chủ động ứng phó tình hình dịch bệnh có thể xảy ra, nhất là bệnh dịch tả lợn Châu Phi, ngành thú y tỉnh đã chỉ đạo tăng cường giám sát các ổ dịch, tổ chức tiêm phòng vắc xin, kiểm soát chặt chẽ vận chuyển gia súc, gia cầm, quản lý giết mổ động vật để giảm nguy cơ phát sinh, lây dịch bệnh.

Công tác tiêm phòng, trong tháng 11/2018 các địa phương trên toàn tỉnh đã tổ chức tiêm phòng 1.178.419 liều vắc xin (trong đó, đàn trâu, bò 24.200 liều; đàn heo 73.462 liều; đàn gia cầm 1.080.320 liều). Luỹ kế 11 tháng 14.965.548 liều (trong đó, đàn trâu, bò 177.542 liều; đàn heo 744.995 liều; đàn gia cầm 14.028.809 liều).

Kiểm dịch động vật, trong tháng ngành thú y tỉnh đã bố trí các kiểm dịch viên tại các địa phương tăng cường công tác kiểm dịch động vật, kết quả đã kiểm dịch đàn heo 109.662 con, luỹ kế 11 tháng 1.339.332 con; 3.247 con trâu bò, luỹ kế 12.074 con; 405.806 con gia cầm, luỹ kế 2.575.956 con; 1.850 con dê, luỹ kế 2.950 con.

Kiểm soát giết mổ, ngành chức năng thực hiện giám sát thường xuyên điều kiện vệ sinh thú y đối với các cơ sở kinh doanh giết mổ. Các đoàn kiểm tra liên ngành các huyện thường xuyên tiến hành kiểm tra các quầy, sạp kinh doanh thịt gia súc, gia cầm tại chợ; đã kiểm soát giết mổ 56 con bò, luỹ kế 475 con; 1.945 con heo, luỹ kế 22.978 con; 321 con dê, luỹ kế 3.437 con; 7.630 con gia cầm, luỹ kế 77.117 con.

3. Lâm nghiệp

Trồng rừng: Tình hình thời tiết thuận lợi, trong tháng đã trồng mới được 777,6 ha, bằng 94,6% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng các đơn vị trồng rừng đã trồng được 3.352 ha, bằng 97,2% so cùng kỳ năm trước. Cơ cấu cây trồng tập trung chủ yếu là keo lai, keo lá liềm, bạch đàn, phi lao.

Quản lý, bảo vệ rừng: Công tác bảo vệ rừng, chống phá rừng và phòng cháy, chữa cháy rừng được tăng cường nhất là rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng; chú trọng kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh với các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng. Tính đến tháng 11/2018 toàn tỉnh thành lập 13 ban chỉ huy PCCR huyện, 107 ban chỉ huy PCCR xã, 483 tổ, đội PCCR ở các địa phương; xây dựng 1.306,4 km đường băng cản lửa (trong đó 43 đường băng xanh và 1.263,4 đường băng trắng), 07 chòi canh lửa; trang bị 170 máy móc, 2.851 dụng cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi có tình huấn cháy khẩn cấp xảy ra.

Tình hình vi phạm lâm luật: Tình hình phá rừng, nhất là khai thác vận chuyển gỗ trái phép ở các vùng trọng điểm giáp ranh giữa Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc với huyện Đức Trọng, Di Linh tỉnh Lâm Đồng và khu vực nội tỉnh, nhất là địa bàn huyện Tánh Linh, Hàm Tân vẫn diễn biến phức tạp.

Tổng số vụ vi phạm lâm luật trong tháng 26 vụ, trong đó: vi phạm quy định về khai thác gỗ và lâm sản khác 06 vụ; mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 10 vụ; vi phạm khác 08 vụ; phá rừng 02 vụ. Luỹ kế 11 tháng 406 vụ, trong đó; phá rừng trái phép 17 vụ; khai thác gỗ và lâm sản khác 69 vụ; mua bán động vận hoang dã 05 vụ; mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 133 vụ; chế biến gỗ và lâm sản khác 11 vụ; vi phạm khác 171 vụ.

Tổng số vụ vi phạm đã xử lý trong tháng 26 vụ (chủ yếu xử phạt hành chính), tịch thu 07 xe máy, 02 phương tiện khác; 6.227 m3 gỗ các loại. Tổng số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách trong tháng 11/2018 là 600,5 triệu đồng. Luỹ kế 11 tháng, tổng số vụ vi phạm quản lý và bảo vệ rừng 406 vụ (số vụ vi phạm đã xử lý 360 vụ vi phạm hành chính và 06 vụ vi phạm hình sự,) tịch thu: 6.724,7 m3 gỗ các loại (gỗ tròn 219,4 m3, gỗ xẻ 6.505,3 m3), về phương tiện: ô tô, máy kéo 06 chiếc, xe máy 128 chiếc và 72 phương tiện khác. Tổng các khoản thu và nộp ngân sách 3,4 tỷ đồng.

4. Thuỷ sản

Nuôi trồng thủy sản: Trong tháng tình hình thời tiết ổn định, không có dịch bệnh nghiêm trọng xảy ra. Diện tích thuỷ sản thu hoạch tháng 11/2018 ước đạt 291,3 ha tăng 1,41% so cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng đạt 2.692,3 ha tăng 2,13% so cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản nuôi trồng thu hoạch tháng 11/2018 ước đạt 1.210,2 tấn tăng 1,37% so cùng kỳ; luỹ kế 11 tháng ước đạt 12.581,1 tấn tăng 2,05% so cùng kỳ năm trước.

Khai thác thuỷ sản: Trong tháng, thời tiết ngư trường ít thuận lợi ảnh hưởng bởi các đợt gió Đông bắc, bão và áp thấp nhiệt đới, hoạt động khai thác trên biển của ngư dân ít nhiều bị ảnh hưởng. Sản lượng khai thác trong tháng 11/2018 ước đạt 17.451 tấn tăng 1,99% so cùng kỳ năm trước, luỹ kế 11 tháng ước đạt 204.860,3 tấn tăng 2,37% so cùng kỳ (trong đó, khai thác biển ước đạt 204.267,1 tấn, tăng 2,37% so cùng kỳ, khai thác nội địa ước đạt 593,2 tấn, tăng 2,57% so cùng kỳ).

Sản xuất giống thuỷ sản: Các cơ sở ươm nuôi, sản xuất tôm giống vẫn duy trì đảm bảo cung cấp cho nhu cầu nuôi tôm trong tỉnh và đặc biệt là thị trường các tỉnh phía Nam. Sản xuất tôm giống trong tháng 11/2018 ước đạt 1,8 tỷ con giảm 0,55% so cùng kỳ năm trước, luỹ kế 11 tháng ước đạt 22,11 tỷ con giảm 2,78% so cùng kỳ năm trước.

Công tác bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản luôn được triển khai thường xuyên. Đẩy mạnh công tác truyền thông, tuyên truyền để nâng cao ý thức trách nhiệm của ngư dân bảo vệ môi trường biển, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; tăng cường kiểm tra giám sát và xử lý nghiêm các vi phạm khi sử dụng các biện pháp khai thác mang tính huỷ diệt nguồn lợi như giã cào, xung điện, chất nổ,... Số vụ vi phạm trong tháng (từ ngày 01-15/11/2018) là 30 vụ, luỹ kế 11 tháng 539 vụ. Trong đó, cản trở công tác bảo vệ nguồn lợi 01 vụ, đóng mới tàu cá trái phép 01 vụ, hành nghề giã cào bay sai vùng khai thác 34 vụ, hành nghề giã cào đáy sai vùng khai thác 16 vụ, hành nghề giã cào bay trong thời gian cấm khai thác 16 vụ, khai thác sò lông nhỏ và trong thời gian cấm 12 vụ, hành nghề lặn trái phép 74 vụ, không bằng máy trưởng, thuyền trưởng 15 vụ, không giấy phép khai thác thủy sản 01 vụ, không đăng ký tàu cá 01 vụ, không đăng kiểm lại tàu cá theo quy định 36 vụ, tàng trữ công cụ kích điện trên tàu cá 17 vụ, sử dụng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ 136 vụ, sử dụng ngư cụ cấm để khai thác thủy sản 64 vụ,...

II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11/2018 ước tăng 2,72% so tháng trước và tăng 18,27% so cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành khai khoáng tăng 4,98%; ngành chế biến, chế tạo tăng 12,44%; sản xuất và phân phối điện giảm 1,92%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,11%. Luỹ kế 11 tháng tăng 18,84% so cùng kỳ năm trước; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện duy trì tốc độ tăng trưởng cao 31,29%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,86%; ngành khai khoáng tăng 3,95%ngành chế biến, chế tạo tăng 1,56%.

           Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 11/2018 (tính theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.356,7 tỷ đồng, tăng 9,10% so tháng trước và tăng 13,06% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng đạt 23.614,0 tỷ đồng (tăng 10,09% so cùng kỳ năm trước); trong đó ngành công nghiệp khai khoáng ước đạt 746,1 tỷ đồng (tăng 4,23%); công nghiệp chế biến chế tạo 14.695,1 tỷ đồng (tăng 2,94%); sản xuất và phân phối điện 7.921,6 tỷ đồng (tăng 27,14%); ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 251,2 tỷ đồng (tăng 10,43% so cùng kỳ năm trước).

Các sản phẩm sản xuất trong 11 tháng tăng so cùng kỳ năm trước gồm: Cát sỏi các loại (tăng 3,48%), đá khai thác (tăng 2,14%), muối hạt (tăng 8,15%), thủy sản đông lạnh (tăng 3,09%), thủy sản khô (tăng 9,07%), nước mắm (tăng 0,19%), hạt điều nhân (tăng 1,31%), nước khoáng (tăng 2,91%), quần áo may sẵn (tăng 9,96%), gạch các loại (tăng 1,21%), nước máy sản xuất (tăng 4,51%), điện (tăng 40,85%), sơ chế mủ cao su (tăng 4,46%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (tăng 1,31%), giày dép các loại (tăng 45,22%). Sản phẩm giảm gồm: Thức ăn gia súc (giảm 2,87% so cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, sản xuất công nghiệp trong 11 tháng tăng trưởng khá; trong đó, ngành sản xuất và phân phối điện vẫn giữ mức tăng cao (tăng 27,14%) do các công ty sản xuất điện hoạt động có hiệu quả. Bên cạnh đó, ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý, xử lý rác thải, nước thải và công nghiệp chế biến chế tạo hoạt động ổn định, một số sản phẩm như: Thủy sản khô, quần áo may sẵn, giày dép các loại,... tăng khá. Riêng hoạt động của ngành công nghiệp khai khoáng đang phục hồi sau thời gian dài gặp khó khăn, giá trị và sản lượng các sản phẩm chủ yếu như: Cát sỏi các loại, đá khai thác, muối đều tăng so cùng kỳ năm trước.

2. Đầu tư phát triển

Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện thuộc vốn ngân sách Nhà nước ước đạt 242,6 tỷ đồng. Luỹ kế 11 tháng đạt 2.192,5 tỷ đồng (tăng 75,22% so cùng kỳ năm trước); trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện 1.606,3 tỷ đồng (tăng 77,68%), vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 511,4 tỷ đồng (tăng 87,43%) và vốn ngân sách nhà nước cấp xã 74,8 tỷ đồng (tăng 0,49% so cùng kỳ năm trước).

* Tình hình triển khai các dự án trọng điểm năm 2018: Theo Nghị quyết số 41/2017/NQ-HĐND ngày 15/12/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2018. Kết quả triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm đến cuối tháng 10/2018 như sau:

- Dự án Kênh tiếp nước Biển Lạc - Hàm Tân: Tổng mức đầu tư là 377 tỷ đồng, đầu tư từ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ và ngân sách tỉnh. Kế hoạch vốn năm 2018: 40 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện từ đầu năm 2018 đến tháng 10 là 15,0 tỷ đồng, giải ngân 2,49 tỷ đồng; luỹ kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến tháng 10 là 255,8 tỷ đồng, giải ngân 242,7 tỷ đồng.

- Dự án phòng chống lũ lụt, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu gắn với cải tạo môi trường sông Cà Ty: Hiện nay, dự án đang được UBND tỉnh xem xét phê duyệt chủ trương đầu tư. Kế hoạch 2018 chưa bố trí vốn.

- Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đảo Phú Quý: Tổng mức đầu tư dự án là 544,693 tỷ đồng, kế hoạch 2018 ngân sách trung ương bố trí 248,756 tỷ đồng. Tổng diện tích thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư là 72.837.6 m2, đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư 06 đợt với kinh phí bồi thường 7,724 tỷ đồng. Giá trị khối lượng xây lắp thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 91,0 tỷ đồng, luỹ kế giá trị khối lượng xây lắp từ khi khởi công là 210,1 tỷ đồng.  Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 112,8 tỷ đồng, luỹ kế giải ngân từ đầu dự án là 235,3 tỷ đồng.

- Dự án đường Lê Duẩn đoạn từ đường Trường Chinh đến đường Lê Hồng Phong: Tổng mức đầu tư là 417 tỷ đồng, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách tập trung tỉnh và nguồn vốn xổ số kiến thiết. Kế hoạch vốn năm 2018: 30 tỷ đồng (nguồn vốn Xổ số kiến thiết). Khối lượng thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 25,9 tỷ đồng, luỹ kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công là 230,3 tỷ đồng. Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 26,1 tỷ đồng; luỹ kế giá trị giải ngân từ khởi công là 230,2 tỷ đồng.

Đã nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng công viên 1-6, đoạn đường Trần Phú nối ra đường Lê Duẩn và hệ thống đèn tín hiệu điều khiển giao thông tại ngã tư giao với QL1A, hệ thống điện chiếu sáng (đoạn từ đường Trường Chinh đến đường Nguyễn Hội).

- Đường Hùng Vương (đoạn từ vòng xoay đại lộ Tôn Đức Thắng đến giáp cầu Hùng Vương):

+ Đoạn qua khu dân cư Hùng Vương II (đoạn 1): Chiều dài tuyến đường là 888,9 m, tổng mức đầu tư 62,2 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 3,587 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 2,2 tỷ đồng, luỹ kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công là 48,7 tỷ đồng. Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 2,2 tỷ đồng, luỹ kế giá trị giải ngân từ khởi công là 46,7 tỷ đồng.  

+ Đoạn qua khu dân cư Hùng Vương II, giai đoạn 2B (đoạn 3): Chiều dài tuyến đường 366 m, tổng mức đầu tư là 34,1 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 12,3 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 9,1 tỷ đồng, luỹ kế khối lượng thực hiện từ khởi công là 18,2 tỷ đồng. Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 10,05 tỷ đồng, luỹ kế giá trị giải ngân từ khởi công là 16,9 tỷ đồng. Công trình đang hoàn tất thủ tục thực hiện nghiệm thu.

- Đường từ Cầu Hùng Vương đến đường ĐT 706B: Tổng mức đầu tư 285,994 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 65 tỷ đồng (vốn ngân sách tỉnh 60 tỷ và nguồn vốn xổ số kiến thiết 5 tỷ). Khối lượng thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 43,8 tỷ đồng, luỹ kế khối lượng thực hiện từ khởi công là 130,7 tỷ đồng. Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 65,0 tỷ đồng, luỹ kế giá trị giải ngân từ khởi công là 130,8 tỷ đồng.

- Dự án đường Lê Duẩn đoạn từ đường Lê Hồng Phong đến đường Trần Hưng Đạo: Tổng mức đầu tư: 243,873 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 212 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh 70 tỷ đồng, nguồn vốn xổ số kiến thiết 60 tỷ đồng, nguồn vượt thu tiền sử dụng đất năm 2018 là 82,0 tỷ đồng). Hiện nay, chủ đầu tư đang trình điều chỉnh, bổ sung báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư, nguồn vốn và khả năng cân đối vốn dự án với tổng mức đầu tư dự kiến là 314,4 tỷ đồng. Khối lượng thực hiện từ đầu năm đến tháng 10 là 158,6 tỷ đồng, luỹ kế khối lượng thực hiện từ khởi công là 200,5 tỷ đồng. Giải ngân từ đầu năm đến tháng 10 là 169,9 tỷ đồng, luỹ kế giá trị giải ngân từ khởi công là 200,1 tỷ đồng.

- Dự án mở rộng đường từ Đá Ông Địa đến khu du lịch Hoàng Ngọc: Tổng chiều dài 6.009 m, chiều rộng mặt đường 09 m, kinh phí đầu tư là 97,096 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 20 tỷ đồng (nguồn vốn xổ số kiến thiết). Đã bố trí cho dự án 29,25 tỷ đồng. Hiện nay, các ngành chức năng đang tiến hành kiểm kê áp giá đền bù đất, vật kiến trúc nằm trong phạm vi công trình.

- Sân bay Phan Thiết: Tổng mức đầu tư là 1.694 tỷ đồng, triển khai hạng mục chính gồm: Hạng mục hàng không dân dụng và hạng mục sân bay quân sự. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng: Tổng diện tích thu hồi thực hiện dự án là 543 ha với 48 hộ và 06 tổ chức.

Kết quả thực hiện: Đã cơ bản thực hiện xong và bàn giao toàn bộ mặt bằng 543 ha. Kinh phí bồi thường, giải phóng mặt bằng: Tổng kinh phí đã phê duyệt là 191,5 tỷ đồng (UBND tỉnh Bình Thuận chi trả 23,1 tỷ đồng, Bộ Quốc phòng chi trả 168,4 tỷ đồng).

- Nhà hát và triển lãm văn hoá nghệ thuật tỉnh Bình Thuận: Tổng mức đầu tư là 200 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 27 tỷ đồng (nguồn vốn xổ số kiến thiết). Đã giải ngân 929 triệu đồng (tạm ứng hợp đồng quản lý dự án).

3. Đăng ký kinh doanh

Về cấp mới đăng ký doanh nghiệp: Tính từ ngày 14/10 đến ngày 14/11/2018, đã tiếp nhận 88 hồ sơ thành lập mới (tăng 17 hồ sơ và tăng 23,94% so cùng kỳ), tổng vốn đăng ký mới đạt 2.682 tỷ đồng (tăng 13,29% so cùng kỳ); giải thể 04 doanh nghiệp (giảm 02 doanh nghiệp so cùng kỳ); thông báo tạm ngừng 02 trường hợp; đăng ký thay đổi 142 trường hợp (so cùng kỳ đạt 119,33%).

Luỹ kế 11 tháng (đến 14/11/2018), thành lập mới 1.148 doanh nghiệp (tăng 10,81% so cùng kỳ); vốn đăng ký 13.925 tỷ đồng (giảm 11,59% so cùng kỳ).

4. Đăng ký đầu tư

Tình hình cấp phép đầu tư: Tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư ngoài ngân sách. Trong tháng 11/2018 (tính đến ngày 15/11/2018), trên địa bàn tỉnh có 04 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, với tổng diện tích đất 34,95 ha, tổng vốn đăng ký 199,17 tỷ đồng. Luỹ kế 11 tháng (từ đầu năm đến 14/11/2018) có 151 dự án được cấp, điều chỉnh, trong đó có 114 dự án được cấp quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, với diện tích 3.786 ha, vốn đầu tư 34.676 tỷ đồng.

Công tác hỗ trợ doanh nghiệp: Triển khai cho Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh và các Hiệp hội ngành nghề có nhu cầu tham dự “hội thảo xúc tiến đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp chế biến thực phẩm”; Cung cấp thông tin về cơ chế chính sách của Nhà nước, dự báo thị trường cho doanh nghiệp trên Website xuctienbinhthuan.vn; Tổ chức khóa học “Cập nhật những quy định mới hướng dẫn lập báo cáo tài chính quyết toán thuế năm 2018", “Chiến lược bán hàng bùng nổ - Triệu quan hệ - Vạn thành công”; Hội thảo “Bình đẳng giới trong kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa do nữ làm chủ”.

III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, Giá cả:

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 11/2018 ước đạt 4.722,6 tỷ đồng, tăng 0,98% so tháng trước và tăng 10,04% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ ước đạt 47.259,6 tỷ đồng, tăng 11,78% so cùng kỳ năm trước. Chia ra:

- Tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 11/2018 ước đạt 3.092,7 tỷ đồng, tăng 0,71% so tháng trước và tăng 9,9% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 11 tháng ước đạt 31.346,8 tỷ đồng, tăng 11,44% so cùng kỳ năm trước;

- Doanh thu dịch vụ tháng 11/2018 ước đạt 1.629,9 tỷ đồng, tăng 3,81% so tháng trước và tăng 10,3% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 11 tháng ước đạt 15.912,9 tỷ đồng, tăng 12,47% so cùng kỳ năm trước.

Trong tháng, ngành chức năng tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh trái pháp luật, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng gây bất ổn thị trường. Việc kiểm tra, kiểm soát đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật. Ngành chức năng đã tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật đến các tổ chức, cơ sở sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là các quy định về an toàn thực phẩm nên đã góp phần tạo chuyển biến tích cực về nhận thức và ý thức chấp hành các quy định pháp luật về thương mại, bảo vệ lợi ích, sức khỏe người tiêu dùng và quyền lợi hợp pháp chính đáng của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh. Trong tháng 10 năm 2018, ngành chức năng đã kiểm tra, kiểm soát 21 vụ, phát hiện 4 vụ vi phạm, trong đó chủ yếu 4 vụ vi phạm trên các lĩnh vực khác. Đã xử phạt và thu nộp ngân sách nhà nước 17,3 triệu đồng. Luỹ kế 10 tháng ngành chức năng đã kiểm tra kiểm soát 1.472 vụ, phát hiện và xử lý 761 vụ. Tổng số tiền phạt nộp vào ngân sách nhà nước gần 4 tỷ đồng.

- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2018 so tháng trước giảm 0,13%; so tháng cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 3,20%; bình quân 11 tháng năm 2018 tăng 3,51% so bình quân 11 tháng năm 2017. Sau 11 tháng (so tháng 12/2017) chỉ số giá tiêu dùng tăng 2,16%; trong đó, nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,65%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,31%; may mặc, mũ nón, giầy dép tăng 3,42%; nhà ở, điện nước và vật liệu xây dựng tăng 1,41%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,79%; thuốc và dịch vụ y tế giảm 4,51%; giáo dục tăng 1,90%; văn hoá giải trí và du lịch giảm 0,51%; giao thông tăng 6,80%; bưu chính viễn thông giảm 1,39%; hàng hoá và dịch vụ khác tăng 3,30%.

*Các nguyên nhân làm giảm CPI tháng 11/2018 so tháng trước:

+ Do giá xăng, dầu được điều chỉnh giảm ngày 06/11/2018 và điều chỉnh giảm vào ngày 21/11/2018 với giá xăng A95 giảm 2.230 đ/lít, giá xăng E5 giảm 2.060 đ/lít, giá dầu diezen giảm 980 đ/lít, giá dầu hỏa giảm 840 đ/lít, bình quân tháng 11/2018 giá xăng dầu giảm 4,18% so tháng trước làm cho nhóm giao thông giảm mạnh 2,14%.

+ Từ ngày 01/11/2018 giá gas trong nước điều chỉnh giảm 40.000 đồng/bình 12kg, giảm 10,39% so tháng 10/2018, giá gas thế giới tháng 11/2018 hiện giao dịch ở mức 540 USD/tấn. So tháng 10 vừa qua, giá gas thế giới đã giảm tới 122,5 USD/ tấn.

+ Giá thịt gia cầm tươi sống và giá trứng giảm do nguồn cung trên thị trường dồi dào, nhu cầu tiêu dùng không tăng nên giá bán có phần giảm so tháng trước.

+ Giá một số loại trái cây giảm như quả có múi giảm 0,66%, chuối giảm 0,60%, do hiện đang vào mùa vụ thu hoạch.

*Các nguyên nhân làm tăng CPI tháng 11/2018 so tháng trước:

+ Giá thịt lợn trên thị trường tiêu dùng vẫn có chiều hướng tăng từ 3.000 -5.000 đ/kg tuỳ từng loại. Nguyên nhân, do nguồn cung hạn chế nên giá bán có phần tăng so tháng trước.

+ Hiện đang là mùa cưới nên nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng thực phẩm tươi sống, thủy hải sản, rau các loại tăng cao. Đồng thời, các dịch vụ liên quan như cho thuê áo cưới, các dịch vụ về hiếu hỉ, trang sức vàng,... trong tháng có phần tăng cao so tháng trước.

+ Do vào thời điểm giao mùa nên giá một số mặt hàng quần áo tăng nhẹ so tháng trước, nhu cầu mua sắm của người dân ngày một nâng cao do chạy theo thời trang. Tăng mạnh ở các mặt hàng len sợi, đồ bộ tay dài, áo ấm cho trẻ,...

2. Du lịch

Dự ước trong tháng 11/2018 các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 552,8 ngàn lượt khách, tăng 1,14% so tháng trước và tăng 7,82% so tháng cùng kỳ năm trước; số ngày khách phục vụ đạt 919,3 ngàn ngày khách tăng 1,47% so tháng trước và tăng 12,02% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng ước đạt 5.168,7 ngàn lượt khách, tăng 11,95% so cùng kỳ năm trước; số ngày khách ước đạt 8.514,3 ngàn ngày khách, tăng 12,97% so cùng kỳ năm trước.

Doanh thu từ hoạt động du lịch tháng 11/2018 ước đạt 1.105,2 tỷ đồng, tăng 1,44% so tháng trước và tăng 19,73% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng ước đạt 11.752,3 tỷ đồng, tăng 18,98% so cùng kỳ năm trước.

Trong tháng khách quốc tế và khách trong nước trong có tăng nhưng thấp so tháng trước. Các công ty du lịch lữ hành đang chuẩn bị kế hoạch cho các tour du lịch cuối năm, chương trình khuyến mãi nhằm tri ân khách hàng và những chương trình tour mới cho năm 2019. Tỉnh tiếp tục tăng cường công tác chỉ đạo và tuyên truyền các biện pháp phòng chống ngộ độc thực phẩm, phổ biến các quy định bảo đảm an toàn thực phẩm cho các khu nghỉ dưỡng, khu du lịch, nhà hàng, khách sạn, cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống và kinh doanh thức ăn đường phố trên địa bàn. Công tác bảo đảm an ninh trật tự, phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động trộm cắp, cướp giật tài sản của du khách luôn được ngành chức năng thường xuyên tuần tra, kiểm soát,...

* Tình hình khách quốc tế: Số lượt khách quốc tế tháng 11/2018 ước đạt 59,7 ngàn lượt khách, tăng 4,79% so tháng trước và tăng 17,62% so tháng cùng kỳ năm trước. Số ngày khách quốc tế lưu trú ước đạt 191,2 ngàn ngày khách, tăng 4,87% so tháng trước và tăng 12,81% so tháng cùng kỳ năm trước.

Trong tháng, lượt khách Trung Quốc, Hàn Quốc, Nga tiếp tục là những quốc gia có tỷ lệ khách quốc tế đến du lịch tại tỉnh cao. Trung Quốc vẫn là thị trường có khách du lịch đến đông nhất, chiếm 28,31% (tháng trước 30,85%); Nga chiếm 24,5% (tháng trước 18,45%); Hàn Quốc chiếm 13,26% (tháng trước 20,4%); Thái Lan chiếm 8,38% (tháng trước 4,78%); Đức chiếm 4,68% (tháng trước 3,1%).

3. Xuất, nhập khẩu:

* Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 11/2018 ước đạt 41,82 triệu USD, tăng 4,48% so tháng trước và tăng 6,93% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 11 tháng ước đạt 407,23 triệu USD, tăng 15,93% so cùng kỳ năm trước; trong đó: nhóm hàng thuỷ sản đạt 133,26 triệu USD (tăng 3,86%), hàng nông sản đạt 9,89 triệu USD (giảm 29,73%), hàng hoá khác 264,08 triệu USD (tăng 26,41%), trong đó hàng may mặc 159,64 triệu USD (tăng 17,59%). Sản lượng một số mặt hàng xuất khẩu như: cao su 1.342 tấn (giảm 49,39%); thanh long 5.044 tấn (tăng 25,76%); hải sản các loại 15.950 tấn (giảm 5,54%).

- Xuất khẩu trực tiếp 11 tháng đạt 388,54 triệu USD (tăng 16,87% so cùng kỳ năm trước), trong đó:

+ Xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 245,50 triệu USD (tăng 14,66% so cùng kỳ năm trước); trong đó: Thị trường Đông Á đạt 225,96 triệu USD (tăng 17,08%), thị trường Đông Nam Á đạt 8,36 triệu USD (tăng 3,27%), thị trường Tây Á đạt 8,96 triệu USD (giảm 17,28%), thị trường Trung Nam Á đạt 2,21 (tăng 1,52% so cùng kỳ năm trước). Tăng chủ yếu ở thị trường Nhật Bản (tăng ở mặt hàng cá đông lạnh, bạch tuộc, giày dép, sản phẩm giấy, sản phẩm may mặc), Đài Loan (tăng ở mặt hàng bộ quần áo, giày dép, bạch tuộc), Thái Lan (tăng ở mặt hàng thanh long), Campuchia (tăng ở mặt hàng ngô hạt), Trung Quốc (tăng ở mặt hàng các loại khoáng sản), Pakixtan (tăng ở mặt hàng giày dép).

+ Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 62,23 triệu USD (tăng 24,22% so cùng kỳ năm trước); trong đó: Thị trường Bắc Âu đạt 15,47 triệu USD (tăng 13,65%), thị trường Đông Âu đạt 1,23 triệu USD (tăng 72,45%), thị trường Nam Âu đạt 14,37 triệu USD (giảm 1,80%), thị trường Tây Âu đạt 31,15 triệu USD (tăng 47,43%). Tăng chủ yếu ở thị trường Anh (tăng ở mặt hàng tôm thẻ), Đức (tăng ở mặt hàng tôm thẻ, sản phẩm từ sắt thép), Hà Lan (tăng ở mặt hàng giày dép, tôm thẻ), Pháp (tăng ở mặt hàng mực tươi, tôm thẻ, hải sản).

+ Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 74,33 triệu USD (tăng 20,72% so cùng kỳ năm trước); trong đó: Thị trường Bắc Mỹ đạt 57,58 triệu USD (tăng 10,64%), thị trường Trung Mỹ đạt 14,89 triệu USD (tăng 68,39%), thị trường Nam Mỹ đạt 1,84 triệu USD (tăng gấp 2,8 lần so cùng kỳ). Tăng chủ yếu ở thị trường Belizơ (mặt hàng đế giày và nguyên phụ liệu giày dép), thị trường Canada (tăng chủ yếu ở mặt hàng giày dép, thanh long), thị trường Mỹ (tăng chủ yếu ở mặt hàng giày dép các loại, cá hộp).

- Ủy thác xuất khẩu 11 tháng ước đạt 18,69 triệu USD, giảm 0,80% so cùng kỳ năm trước.

* Xuất khẩu dịch vụ du lịch tháng 11/2018 ước đạt 20,72 triệu USD, tăng 1,35% so tháng trước và tăng 20,49% so tháng cùng kỳ năm trước; luỹ kế 11 tháng ước đạt 218,16 triệu USD, tăng 15,47% so cùng kỳ năm trước.

* Nhập khẩu 11 tháng ước đạt 820,33 triệu USD giảm 10,91% so cùng kỳ năm trước. Chủ yếu giảm ở mặt hàng máy móc thiết bị (Công ty TNHH Điện Lực Vĩnh Tân 1), hàng thủy sản.

Nhìn chung, nhóm hàng thủy sản 11 tháng vẫn giữ mức tăng ổn định nhờ có nhiều đơn hàng ổn định. Nhóm hàng nông sản 11 tháng giảm sâu so cùng kỳ, do mặt hàng cao su giảm mạnh, vì không có nhiều hợp đồng xuất khẩu, chủ yếu bán nội địa. Nhóm hàng hóa khác chiếm tỷ trọng lớn là mặt hàng may mặc và giày dép, hai mặt hàng này vào những tháng đầu năm có nhiều hợp đồng được ký kết nên kim ngạch xuất khẩu tăng hơn so cùng kỳ.

4. Giao thông vận tải

- Vận tải hành khách:

+ Ước tháng 11/2018 đã vận chuyển 2.012,4 nghìn hành khách và luân chuyển 103,19 triệu hk.km. Luỹ kế 11 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 20.995,3 nghìn nh khách (đạt 87,33% kế hoạch năm, tăng 8,84% so cùng kỳ năm trước) và luân chuyển 1.083,5 triệu hk.km (đạt 89,99% kế hoạch năm, tăng 9,19% so cùng kỳ năm trước).

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 11/2018 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.996,3 nghìn hành khách (luỹ kế 11 tháng đạt 20.824,6 nghìn hành khách, tăng 8,84% so cùng kỳ năm trước); vận chuyển hành khách đường thủy đạt 16,1 nghìn hành khách (luỹ kế 11 tháng đạt 170,7 nghìn hành khách, tăng 9,24% so cùng kỳ); luân chuyển hành khách đường bộ đạt 101,4 triệu hk.km (luỹ kế 11 tháng đạt 1.064,5 triệu hk.km, tăng 9,20% so cùng kỳ), luân chuyển hành khách đường thủy đạt 1,8 triệu hk.km (luỹ kế 11 tháng đạt 19,0 triệu hk.km, tăng 8,76% so cùng kỳ năm trước).

- Vận tải hàng hoá:

+ Ước tháng 11/2018 vận chuyển hàng hoá đạt 827,1 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 46,5 triệu tấn.km. Luỹ kế 11 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 8.276,8 nghìn tấn hàng hoá (đạt 89,48% kế hoạch năm, tăng 10,35% so cùng kỳ năm trước) và luân chuyển hàng hoá đạt 465,5 triệu tấn.km (đạt 92,17% kế hoạch năm, tăng 10,14% so cùng kỳ năm trước).

+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 11/2018, vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 826,3 nghìn tấn (luỹ kế 11 tháng đạt 8.268,8 nghìn tấn, tăng 10,35% so cùng kỳ năm trước); vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,8 nghìn tấn (luỹ kế 11 tháng đạt 8,1 nghìn tấn, tăng 10,82% so cùng kỳ); luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 46,4 triệu tấn.km (luỹ kế 11 tháng đạt 464,6 triệu tấn.km, tăng 10,14% so cùng kỳ), luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 89,5 ngàn tấn.km (luỹ kế 11 tháng đạt 916,2 ngàn tấn.km, tăng 11,69% so cùng kỳ năm trước).

- Cảng tổng hợp Vĩnh Tân: Ước tháng 11/2018, sản lượng hàng hóa thông qua cảng là 6.000 tấn; luỹ kế 11 tháng ước đạt 75.595 tấn hàng hoá (trong đó bốc xếp hàng xuất khẩu đạt 14.537 tấn). Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm tinh quặng elmenite, cát xây dựng, muối, tro bay,...

Nhìn chung, trong tháng 11/2018, công tác bảo đảm giao thông, lưu thông đi lại được thực hiện tốt. Vận tải đường bộ, đường biển ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, tỉnh cũng quản lý chặt chẽ các khâu trong công tác kiểm định xe cơ giới, sát hạch cấp giấy phép lái xe; tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và siết chặt quản lý các cơ sở đào tạo hoạt động trên địa bàn và tăng cường công tác tuần tra, kiểm soát, kịp thời xử lý ngăn chặn xe quá tải, quá khổ, thực hiện tốt công tác bảo vệ hành lang an toàn đường bộ.

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu ngân sách

Ước thu ngân sách tháng 11/2018 đạt 920 tỷ đồng; luỹ kế 11 tháng 9.625,4 tỷ đồng, đạt 113,24% dự toán năm (tăng 8,40% so cùng kỳ năm trước). Trong đó: Thu nội địa (trừ dầu) 6.767,9 tỷ đồng, đạt 112,42% dự toán năm (tăng 20,76% so cùng kỳ năm trước). Riêng thu thuế, phí 5.403,1 tỷ đồng, đạt 101,56% dự toán năm (tăng 23,71% so cùng kỳ năm trước); thu tiền sử dụng đất 1.364,8 tỷ đồng, đạt 194,98% dự toán năm (tăng 10,34%); thu thuế xuất nhập khẩu 1.180,7 tỷ đồng, đạt 118,07% dự toán năm (giảm 26,08%) và thu dầu thô 1.676,9 tỷ đồng, đạt 113,30% dự toán năm (giảm 0,04% so cùng kỳ năm trước).

Dự ước các khoản thu tăng (giảm) của 11 tháng năm 2018 so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 1.262,7 tỷ đồng (tăng 64,69% so cùng kỳ năm trước), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 622,8 tỷ đồng (tăng 15,99%), thu ngoài quốc doanh 969,3 tỷ đồng (tăng 18,03%), thuế thu nhập cá nhân 462,9 tỷ đồng (tăng 39,37%), thuế bảo vệ môi trường 376,2 tỷ đồng (giảm 15,47%), lệ phí trước bạ 256,1 tỷ đồng (tăng 36,21%), thu từ các loại phí, lệ phí 121,0 tỷ đồng (giảm 3,46%), thu xổ số kiến thiết 749,4 tỷ đồng (tăng 19,90%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 95,5 tỷ đồng (tăng 22,63%), thu tiền sử dụng đất 1.364,8 tỷ đồng (tăng 10,34%), thu từ dầu thô 1.676,9 tỷ đồng (giảm 0,04%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 1.180,7 tỷ đồng (giảm 26,08%).

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố kết quả thu trong tháng 11/2018 ước đạt 182,0 tỷ đồng, luỹ kế 11 tháng 2.579,0 tỷ đồng, đạt 139,86% dự toán năm (tăng 23,90% so cùng kỳ năm trước). Trong đó: Phan Thiết thu 1.157,1 tỷ đồng, đạt 139,07% dự toán (tăng 28,80% so cùng kỳ năm trước); La Gi: 179,9 tỷ đồng, đạt 146,26% dự toán (tăng 39,53%); Tuy Phong: 230,8 tỷ đồng, đạt 122,14% dự toán (giảm 5,84%); Bắc Bình: 131,1 tỷ đồng, đạt 165,89% dự toán (tăng 68,52%); Hàm Thuận Bắc: 364,3 tỷ đồng, đạt 175,99% dự toán (tăng 47,30%); Hàm Thuận Nam: 173,3 tỷ đồng, đạt 119,49% dự toán (tăng 12,71%); Tánh Linh: 90,0 tỷ đồng, đạt 108,40% dự toán (tăng 2,97%); Đức Linh: 115,6 tỷ đồng, đạt 128,43% dự toán (giảm 4,98%); Hàm Tân: 99,8 tỷ đồng, đạt 131,37 dự toán (tăng 11,79%) và Phú Quý thu 37,1 tỷ đồng, đạt 185,59% dự toán năm (tăng 15,94%).

Nhìn chung thu ngân sách đã có nhiều cố gắng. Một số khoản thu có tỷ trọng lớn trong dự toán đã tăng cao so cùng kỳ năm trước nên đã tác động đến mức tăng thu là: Thu từ doanh nghiệp nhà nước, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, thuế thu nhập cá nhân, lệ phí trước bạ, thu xổ số kiến thiết, thu tiền sử dụng đất; trong đó các khoản thu lớn đến nay đã vượt dự toán năm là: Thu từ doanh nghiệp nhà nước (đạt 117,46% dự toán năm), thuế thu nhập cá nhân (đạt 112,90% dự toán năm), lệ phí trước bạ (đạt 116,42% dự toán năm), thu xổ số kiến thiết (đạt 104,08% dự toán năm), thu tiền sử dụng đất (đạt 194,98% dự toán năm). Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một vài nguồn thu có tỷ trọng khá lớn đạt thấp so dự toán và giảm so cùng kỳ năm trước như: Thu thuế bảo vệ môi trường (mới đạt 63,76% dự toán năm, giảm 15,47% so cùng kỳ năm trước).

Hiện nay, tỉnh đẩy mạnh thực hiện kế hoạch thanh - kiểm tra thuế năm 2018. Đặc biệt chú trọng các doanh nghiệp thuộc các ngành có số thu lớn, tiềm ẩn rủi ro về trốn thuế, gian lận thuế cao như: Khai thác khoáng sản, du lịch, xăng dầu; doanh nghiệp có hoàn thuế; các doanh nghiệp có hoạt động liên kết, doanh nghiệp lỗ có dấu hiệu chuyển giá; doanh nghiệp có rủi ro cao về in, phát hành, mua bán và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp; các doanh nghiệp hoạt động ở các ngành nghề kinh doanh mới. Tiếp tục tăng cường công tác quản lý hoàn thuế, thu hồi nợ đọng, thường xuyên triển khai chính sách thuế mới nhằm tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao hiệu lực quản lý thuế.

2. Chi ngân sách

Ước chi ngân sách địa phương trong tháng 11/2018 là 695,0 tỷ đồng. Luỹ kế 11 tháng ước thực hiện 9.610,961 tỷ đồng (đạt 106,98% dự toán năm). Trong đó: Chi đầu tư phát triển 1.908,180 tỷ đồng (đạt 97,95% dự toán năm); chi thường xuyên 5.622,809 tỷ đồng (đạt 99,79% dự toán năm). Trong chi ngân sách, đã bám sát theo Nghị quyết HĐND tỉnh, Quyết định giao dự toán của Chủ tịch UBND tỉnh. Triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, nhất là kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, công tác nước ngoài, kinh phí mua sắm ô tô và trang thiết bị đắt tiền. Đồng thời, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý ngân sách nhà nước.

3. Hoạt động tín dụng

- Tình hình thực hiện lãi suất: Đã thực hiện tốt các quy định về lãi suất huy động và cho vay, tiết kiệm chi phí hoạt động để có điều kiện giảm lãi cho vay nhằm chia sẻ khó khăn với khách hàng. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so tháng trước. Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,3-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,3-6,5%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6-7,3%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 6-6,5%/năm, các lĩnh vực khác từ 9-10%/năm, lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10-11,5%/năm.  

- Hoạt động tín dụng: Được tiếp tục đẩy mạnh để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến 31/10/2018, nguồn vốn huy động đạt 34.053 tỷ đồng, tăng 10,68% so đầu năm, tăng 0,28% so tháng trước. Ước đến 30/11/2018: Vốn huy động đạt 34.460 tỷ đồng, tăng 12,0% so đầu năm. Tổng dư nợ cho vay đạt 44.325 tỷ đồng, tăng 14,44% so đầu năm, tăng 1,71% so tháng trước; ước đến 30/11/2018, dư nợ đạt 45.315 tỷ đồng, tăng 17,0% so đầu năm.

- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 23.957 tỷ đồng (chiếm 54% tổng dư nợ), tăng 8,0% so đầu năm; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 862 tỷ đồng (chiếm 1,9% tổng dư nợ), giảm 1,7% so đầu năm; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa  đạt 8.665 tỷ đồng (chiếm 19,5% tổng dư nợ), tăng 26,5% so đầu năm; dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.443 tỷ đồng/126.265 khách hàng.

- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP: Tổng số tiền cam kết cho vay theo hợp đồng tín dụng là 1.100 tỷ đồng. Đến 31/10/2018 đã giải ngân xong cho tất cả 121 hồ sơ với số tiền 1.093 tỷ đồng (đạt 99,36% so tổng số tiền cam kết cho vay); dư nợ đạt 1.010 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 303 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 694 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 13 tỷ đồng); nợ xấu là 4,85 tỷ đồng; nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ là 6,2 tỷ đồng/10 tàu. Ngoài ra, có 01 trường hợp đã xử lý rủi ro vào 31/10/2017; 01 trường hợp đưa ra khỏi danh sách cho vay theo Nghị định 67, chuyển sang dư nợ thông thường vào năm 2018 do không thuộc đối tượng.

- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 391 tỷ đồng phục vụ sản xuất tôm giống, nuôi tôm thịt, mua bò và chăm sóc bò giống, trồng thanh long.

- Cho vay hỗ trợ nhà ở: Dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở là 33,65 tỷ đồng/104 khách hàng. Trong đó: Dư nợ cho vay mua nhà ở xã hội là 1,95 tỷ đồng/12 khách hàng; dư nợ cho vay xây mới, cải tạo, sửa chữa nhà ở là 31,7 tỷ đồng/92 khách hàng. Hiện tại, việc cho vay phát triển nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP đang được triển khai tại Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 1,65 tỷ đồng/5 hộ.

- Chính sách xây dựng bể chứa nước hộ gia đình và đào trữ nước cho vùng khô hạn tỉnh Bình Thuận năm 2017 và giai đoạn 2018-2020 theo Quyết định 1744/QĐ-UBND ngày 27/6/2017: Hiện nay đang tiếp cận với các hộ theo danh sách phê duyệt hỗ trợ của Ủy ban nhân dân tỉnh, tuy nhiên đến nay vẫn chưa phát sinh dư nợ. Nguyên nhân do hầu hết hộ gia đình đã có khoản vay thông thường tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và chưa có nhu cầu hoàn thiện hồ sơ để vay thêm khoản mới.

- Chất lượng tín dụng: Các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện các giải pháp để ngăn chặn và xử lý nợ xấu, trong đó thực hiện đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý, thu nợ. Đến 31/10/2018, nợ xấu (nội bảng) trên địa bàn là 445 tỷ đồng (chiếm 1% tổng dư nợ), tỷ lệ nợ xấu tăng 0,16% so đầu năm.

- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/10/2018, trên địa bàn có 170 máy ATM và 1.475 máy POS, hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng đã bám sát sự điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước để ấn định tỷ giá mua, bán cho phù hợp; đồng thời thường xuyên theo dõi hoạt động của các đại lý đổi ngoại tệ. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 10 tháng đầu năm đạt 1.590 triệu USD, tăng 53,0% so cùng kỳ năm trước; trong đó doanh số chi trả kiều hối đạt 97 triệu USD, tăng 83,0% so cùng kỳ năm trước.

Nhìn chung, hoạt động tín dụng trên địa bàn tiếp tục ổn định. Trong tháng, tiếp tục triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách, các văn bản chỉ đạo của trung ương và địa phương nhằm duy trì sự ổn định của hoạt động ngân hàng.

V. Lĩnh vực Văn hóa - Xã hội

1. Hoạt động văn hóa:

Trong tháng đã tập trung tuyên truyền các nhiệm vụ chính trị quan trọng như: Kỷ niệm 88 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2018); 23 năm ngày Du lịch Bình Thuận (24/10/1995 -24/10/2018), ngày thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam (18/11); ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11), ngày Di sản Văn hóa Việt Nam (23/11),... với 6.135 giờ phát thanh xe loa phóng thanh, cắt dán 5.792 m băng rôn khẩu hiệu, kẻ vẽ 5.435 m2 pa nô, hơn 6.187 m cờ dây và 6.218 cờ các loại. Trưng bày, triển lãm 60 ảnh nghệ thuật “Thanh long Bình Thuận hội nhập và phát triển”; 24 ảnh “Phong trào Thể dục, Thể thao Bình Thuận” phục vụ Đại hội Thể dục, Thể thao tỉnh Bình Thuận lần thứ VIII – 2018. Đội Tuyên truyền lưu động biểu diễn 16 buổi tuyên truyền phòng, chống tội phạm, ma túy tại huyện Hàm Thuận Nam, Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Thuận Bắc. Thành phố phan Thiết tổ chức tốt Lễ kỷ niệm 120 năm Phan Thiết được công nhận thị xã (20/10/1898-20/10/2018); thị xã La Gi tổ chức Lễ hội Dinh Thầy Thím năm 2018.

Hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng: Đã tiếp nhận hồ sơ thí sinh đăng ký dự thi Liên hoan “Tình khúc Bolero” tỉnh Bình Thuận lần thứ II năm 2019. Nhà hát ca múa nhạc Biển Xanh đã biểu diễn 13 buổi phục vụ chính trị, biểu diễn doanh thu đạt 150,6 triệu đồng. Tổ chức hoán đổi chỉ tiêu phục vụ nhiệm vụ chính trị năm 2018 tại tỉnh Long An (05 xuất).

Trung tâm Phát hành phim và Chiếu bóng: Phục vụ vùng sâu, miền núi, thiếu nhi 80 buổi, thu hút 25.600 lượt người xem.

Hoạt động Thư viện: đã cấp mới 90 thẻ bạn đọc (41 thẻ thiếu nhi), phục vụ 2.954 lượt bạn đọc (thiếu nhi 782 lượt), luân chuyển 17.228 lượt tài liệu (thiếu nhi 9.120 lượt). Sưu tầm 126 tin, bài tập Thông tin tư liệu Bình Thuận; 35 tin, bài chuyên mục Thông tin kinh tế; Bổ sung 497 bản sách; Luân chuyển 200 bản sách cho Trường tiểu học Thiện Nghiệp II.

Hoạt động bảo tồn, bảo tàng: Bảo tàng Hồ Chí Minh - Chi nhánh Bình Thuận: đã phục vụ 110 đoàn, với 5.927 lượt khách (trong đó có 50 lượt khách nước ngoài) và 08 lễ viếng và Lễ rước đuốc của đoàn Đại hội Thể dục Thể thao tỉnh Bình Thuận lần thứ VIII/2018. Cử cán bộ thuyết minh tham gia công tác triển lãm Hoàng Sa, Trường Sa do Sở Thông tin và Truyền thông tổ chức. Bảo tàng tỉnh: Đón 240 lượt khách tham quan. Ban Quản lý di tích Tháp Pô Sah Inư đã đón 14.206 lượt khách (trong đó có 5.418 khách quốc tế). Trung tâm Trưng bày Văn hóa Chăm: Đón 2.557 lượt khách đến tham quan. Trưng bày chuyên đề và tổ chức các hoạt động phục vụ khách tham quan dịp lễ Katê năm 2018.

2. Thể dục thể thao:

Thể thao cho mọi người: Từ đầu năm đến nay, đã tổ chức 17 giải thể thao tỉnh, khu vực và quốc gia, phục vụ các sự kiện chính trị, các ngày lễ, tết, nhất là các hoạt động mừng Đảng, mừng Xuân 2018,... Tổ chức thành công giải vô địch Bóng ném bãi biển nam, nữ toàn quốc năm 2018; giải Đua thuyền truyền thống toàn quốc năm 2018; giải trẻ Taekwondo Cụm các tỉnh miền Đông Nam bộ năm 2018 và các trận thi đấu giải Bóng đá hạng Nhì quốc gia năm 2018. Đến nay, tỷ lệ người luyện tập thể dục thể thao thường xuyên đạt 29,5%/31% kế hoạch (đạt 95,2%); tỷ lệ trường học đảm bảo giáo dục thể chất đạt 100%.

Thể thao thành tích cao: Trong tháng đã tham dự giải Võ thuật cổ truyền Cụm miền Đông Nam bộ năm 2018 tại Đồng Nai (đạt 06 huy chương vàng, 10 huy chương bạc, 05 huy chương đồng); giải Vovinam Cụm miền Đông Nam Bộ năm 2018 tại Tây Ninh (đạt được 03 huy chương vàng, 02 huy chương bạc, 04 huy chương đồng). Tính đến tháng 11/2018, các đoàn thể thao của tỉnh đã đạt được 125/90 huy chương các loại (đạt 139%), trong đó: 50/26 HCV (đạt 192%), 38/24 HCB (đạt 158%), 37/40 HCĐ (đạt 93%). Có 27 vận động viên đạt Kiện tướng và dự bị kiện tướng, 68 vận động viên Cấp 1.

3. Giáo dục và Đào tạo

Hoàn thành công tác coi thi, chấm thi kỳ thi học sinh giỏi lớp 12 cấp tỉnh và chọn đội tuyển tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia năm học 2018 -2019; kết quả như sau:

Tổng số học sinh đăng ký dự thi: 802 (trong đó, tổng số thí sinh tham gia dự thi ở vòng 1 là 800, vắng 02; tổng số thí sinh dự thi ở vòng 2 là 788, vắng 14). Số học sinh đạt giải 303 (đạt tỷ lệ 37,87%), trong đó: Giải nhất 21; Giải nhì 34; Giải ba 248.

Ngành giáo dục đã thành lập đội tuyển học sinh giỏi lớp 12 của tỉnh để tham gia kỳ thi học sinh giỏi cấp quốc gia do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức (từ ngày 13/01-15/01/2019), gồm 54 học sinh dự thi với 09 môn học (Ngữ văn, Lịch sử, Địa lý, Tiếng Anh, Toán, Vật lý, Hóa học, Sinh học, Tin học; mỗi môn 06 học sinh).

4. Y tế

Trong tháng đã tập trung nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân; tăng cường ứng dụng các kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều trị. Các đơn vị y tế dự phòng đã tập trung thực hiện các biện pháp phòng chống dịch bệnh, không để xảy ra bệnh dịch lớn.

Trong tháng (từ 15/10 đến 15/11/2018) toàn tỉnh có:

- Số cas mắc sốt xuất huyết 244 cas (tăng 31,9% so tháng trước), không có cas tử vong; mắc tay chân miệng 515 cas (tăng 2,1 lần so tháng trước), không có cas tử vong; mắc sốt rét 06 cas (tăng 100% so tháng trước), không có cas mắc sốt rét ác tính, không có trường hợp tử vong.

- Số bệnh nhân hiện mắc bệnh phong 10, số bệnh nhân mới phát hiện 0, số bệnh nhân đang quản lý 465, bệnh nhân phong mới bị tàn tật độ II: 0.

- Công tác phòng chống Lao: Tổng số lượt khám 988, số bệnh nhân thu dung điều trị 169. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới 87.

- Số trẻ dưới 1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ là 1.949 trẻ (đạt tỷ lệ 8,2%). Số phụ nữ có thai được tiêm UV2+ 2.082 (đạt tỷ lệ 8,8%).

- Công tác phòng chống HIV/AIDS: Số nhiễm HIV mới 07 (luỹ kế 11 tháng 1.392); số chuyển AIDS mới 04 (luỹ kế 11 tháng 994); tử vong 02 (luỹ kế 11 tháng 511).

- Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm: Trong tháng không có xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm.

- Công tác Dân số - KHHGĐ: Tổng số trẻ sinh ra trong tháng 1.965, số người mới đặt vòng 1.321, số mới triệt sản 48 người.

- Công tác khám, chữa bệnh tiếp tục cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng đã khám tổng số 84.703 lượt khám, chữa bệnh và số bệnh nhân nội trú 12.186 người.

Toàn tỉnh hiện có 115/115 Trạm Y tế xã, phường có bác sỹ công tác, chiếm tỷ lệ 100%; bình quân có 7,15 bác sỹ/vạn dân, tăng 0,15 so năm 2017 (kế hoạch năm 2018: 7,15); Tổng số xã, phường, thị trấn đạt Chuẩn quốc gia về y tế 119/127, đạt tỷ lệ 93,7%. Dự kiến đến cuối năm 2018 có thêm 06 xã, phường đạt Chuẩn quốc gia về y tế (ước đạt 98,4%).

5. Lao động - Xã hội

Trong tháng đã giải quyết việc làm cho 2.465 lao động, nâng tổng số giải quyết việc làm 11 tháng 23.695/24.000 lao động (đạt 98,73% kế hoạch). Trong đó: cho vay vốn giải quyết việc làm 1.052 lao động, cung ứng lao động cho các doanh nghiệp 3.991 lao động, đưa 141 lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài và  thông qua các Chương trình phát triển  kinh tế  -  xã hội của tỉnh 18.511 lao động.

Công tác tuyển mới và đào tạo nghề trong cho 940 người, trong đó: đào tạo nghề cho lao động nông thôn 523 người. Nâng tổng số đào tạo nghề 11 tháng 10.824 người (đạt 98,40% kế hoạch), trong đó: đào tạo nghề cho lao động nông thôn cho 5.538 người (đạt 92,3% kế hoạch).

Toàn tỉnh có 2.507 người nghiện ma túy; có 108/127 xã, phường, thị trấn có người sử dụng trái phép chất ma túy, chiếm 85,04% xã, phường, thị trấn có tệ nạn ma túy. Số người đăng ký điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone luỹ kế đến ngày 08/11/2018 là 1.430 (tăng 10 người so tháng trước).

Quỹ đền ơn đáp nghĩa vận động được 8,6  tỷ (đạt 143,2%), trong đó: cấp tỉnh được 2,5 tỷ (đạt 166,7%); cấp huyện được 6,1 tỷ (đạt 135%). Vận động Quỹ Bảo trợ trẻ em 2.158 triệu đồng, đạt 107,9% kế hoạch năm. Hỗ trợ phẫu thuật tim cho 06 trẻ bị bệnh tim bẩm sinh với kinh phí 309,3 triệu đồng; hỗ trợ đột xuất cho 03 trẻ bị đuối nước và 03 trẻ bị bệnh hiểm nghèo với kinh phí là 48 triệu đồng.

Giải quyết trợ cấp thất nghiệp 772 người (Phan Thiết 485, La Gi 104, Đức Linh 96, Tuy Phong 87), luỹ kế 11 tháng (từ đầu năm đến 12/11) 8.028 người; số người có Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 607 người, luỹ kế 11 tháng 7.865 người; số người có quyết định hỗ trợ học nghề 34 người, luỹ kế 11 tháng 325 người.

Công tác chính sách người có công: Đã tham mưu cho UBND tỉnh xét khen thưởng cho 05 xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, người có công theo đề nghị của các huyện, thị xã, thành phố gồm: Phú Lạc (huyện Tuy Phong), Tam Thanh (huyện Phú Quý), Hàm Chính (huyện Hàm Thuận Bắc), Lạc Đạo (Tp. Phan Thiết), Đức Tài (huyện Đức Linh). Thực hiện chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 16 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp thờ cúng cho 41 người thờ cúng liệt sỹ; trợ cấp mai táng phí cho 36 trường hợp, cấp mai táng phí cho 07 trường hợp. Thực hiện chế độ cho các đối tượng khác: trợ cấp 1 lần cho 02 trường hợp, cấp BHYT cho 24 trường hợp. Ngoài ra, di chuyển 06 hồ sơ đi tỉnh ngoài gồm: (02 hồ sơ thương binh, 02 hồ sơ bệnh binh, 02 hồ sơ liệt sĩ) và tiếp nhận 11 hồ sơ liệt sĩ từ tỉnh ngoài chuyển đến.

6. Hoạt động bảo hiểm

Tính đến ngày 31/10/2018, toàn tỉnh có 93.191 người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc (tăng 7,7% so cùng kỳ năm trước); số người tham gia BHXH tự nguyện 608 người (giảm 17,5% so cùng kỳ năm trước); số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) 81.263 người (tăng 5,9% so cùng kỳ năm trước); số người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) 949.343 người (gồm thân nhân sỹ quan 10.017 thẻ), tăng 4,4% so cùng kỳ năm trước). Tỷ lệ bao phủ BHYT toàn dân đạt 81,16% (bao gồm 56.495 thẻ BHYT của người dân Bình Thuận học tập và lao động ở ngoài tỉnh).

Công tác thu: Tính đến ngày 31/10/2018, toàn tỉnh thu được 1.738,728 tỷ đồng, đạt 85,45% kế hoạch năm (tăng 17,9% so cùng kỳ năm trước). Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 102,925 tỷ đồng; nguyên nhân là do các nguồn chi và hỗ trợ từ nguồn ngân sách Nhà nước địa phương chưa được trích chuyển đầy đủ, kịp thời, tình trạng chậm đóng, nợ đọng tại các đơn vị và địa phương vẫn chưa được khắc phục.

Trong tháng đã xét duyệt giải quyết cho 5.307 lượt người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp. Tính từ đầu năm đến 31/10/2018, đã xét duyệt giải quyết 46.444 người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp tăng 13,2% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội là 41.032 lượt người (hưởng chế độ BHXH dài hạn 821 người, trợ cấp BHXH một lần 7.923 người; các chế độ ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức - phục hồi sức khoẻ 32.288 lượt người); bảo hiểm thất nghiệp là 5.412 lượt người.

Nhìn chung từ đầu năm đến nay (tính đến 31/10/2018), công tác phát triển đối tượng tham gia bảo hiểm đã có chuyển biến tích cực đạt và vượt kế hoạch đề ra; giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch; thực hiện tốt việc chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng, BHTN đảm bảo đầy đủ, kịp thời, an toàn.

7. Tai nạn giao thông

Trong tháng 11/2018 (từ 16/10/2018 - 15/11/2018), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:

- Số vụ tai nạn giao thông 48 vụ (so tháng trước tăng 11 vụ). So cùng kỳ năm trước giảm 02 vụ. Luỹ kế 11 tháng 387 vụ so cùng kỳ năm trước giảm 62 vụ.

- Số người bị thương 41 người (tăng 19 người so tháng trước). So cùng kỳ năm trước tăng 04 người. Luỹ kế 11 tháng là 281 người, giảm 69 người so cùng kỳ năm trước.

- Số người chết 35 người (so tháng trước tăng 11 người). So cùng kỳ năm trước tăng 10 người. Luỹ kế 11 tháng là 224 người (so cùng kỳ tăng 16 người).

Trong đó: xảy ra 01 vụ tai nạn giao thông đặt biệt nghiêm trọng, làm 03 người chết, không có người bị thương (Quốc lộ 1A, huyện Tuy Phong).

Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông, đặc biệt tai nạn đường sắt xảy ra tại ga Vĩnh Hảo, huyện Tuy Phong bị trật bánh, tai nạn không gây thiệt hại về người.

8. Thiên tai, cháy nổ

8.1 Thiên tai: Trong tháng 11 có 2 đợt thiên tai xảy ra, do mưa lớn gây ngập lụt trên địa bàn huyện Hàm Thuận Nam Hàm Thuận Bắc đã gây thiệt hại 54,8 ha cây bắp/59 hộ dân, tại thôn 1, xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam; bị ngập, thiệt hại về sản xuất nông nghiệp là 50 ha (chủ yếu là cây lúa từ 15 - 35 ngày tuổi) tại Hàm Thuận Bắc; làm thiệt hại 1 tỷ đồng.

* Tình hình cơn bão số 9: Theo báo cáo nhanh của Ban Chỉ huy phòng chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn tỉnh từ 24-26/11/2018, mưa lớn trong thời gian ngắn, kết hợp xả nước qua tràn của một số hồ chứa thủy lợi gây lũ và ngập lụt phạm vi ảnh hưởng trên diện rộng cho các xã, thị trấn thuộc các huyện Tuy Phong, Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam và Tánh Linh; chìm tàu thuyền, ngập lụt khu vực dân cư, thiệt hại nhiều diện tích sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản,... đã gây thiệt hại như sau:

Toàn tỉnh đã tổ chức di dời, sơ tán dân do lũ ngập lụt 629 hộ/1.898 khẩu. Trong đó: Tuy Phong 235 hộ/940 khẩu di dời (Phan Rí Cửa 165 hộ/660 khẩu; Hòa Minh 70 hộ/280 khẩu); Bắc Bình 394 hộ/1.049 khẩu (Phan Rí Thành 110 hộ/210 khẩu; Phan Hòa 130 hộ/420 khẩu; Hồng Thái 04 hộ/9 khẩu; Chợ Lầu 150 hộ/410 khẩu).

Về thiệt hại:

- Về người: Không có thiệt hại về người.

- Về nhà ở: Tổng số nhà bị ngập, hư hỏng 440 căn (Hàm Thuận Bắc 01 căn tốc mái do lốc xoáy; Hàm Thuận Nam 04 căn tốc mái; Bắc Bình ngập 435 căn; (xã Sông Lũy 15 căn; xã Phan Hoà 310 căn; xã Phan Rí Thành 110 căn).

- Về sản xuất nông nghiệp: Tổng diện tích ngập 5.150 ha lúa, thanh long và hoa màu các loại (lúa ở giai đoạn sắp chín) ở 04 huyện, gồm Bắc Bình 4.150 ha (lúa 2.371 ha, thanh long 1.208 ha, hoa màu 571 ha), Hàm Thuận Bắc 100 ha, Tánh Linh 900 ha, Tuy Phong đang ngập chưa thống kê được).

- Về gia súc, gia cầm: Lũ cuốn trôi 07 con bò.

- Về tàu thuyền: Trôi, chìm 35 chiếc của huyện Tuy Phong, cụ thể: Tại cửa Liên Hương chìm 28 chiếc, gồm chìm 05 chiếc thuyền (có 01 chiếc 123 CV, 04 chiếc >20 CV); 03 xuồng máy và 20 thúng máy trôi ra biển. Tại cửa Phan Rí chìm 07 chiếc (02 chiếc của Phan Rí; 02 chiếc của Hoà Phú; 02 chiếc của tỉnh bạn; 01 tàu hút cát). Phú Quý: Bị hư hỏng 02 chiếc tàu (Có 01 tàu công suất 707 Cv neo tại cảng Phú Quý bị va đập và hư hỏng nhẹ; 01 chiếc xuồng nhỏ dưới 20 Cv bị chìm tại Cảng vào tối ngày 24/11/2018).

- Về nuôi trồng thủy sản: Thiệt hại 13 ha tôm nuôi do nước tràn vào (Hòa Minh - Tuy Phong).

- Về công trình hạ tầng khác: Sập 01 cầu Lệ Ngân - Phan Hoà, huyện Bắc Bình. Sập 50 m tường rào trường Tiểu học Phan Hoà 1, Bắc Bình. Ngập, ngã đổ hư hỏng 01 trụ điện (xã Bình Tân, Bắc Bình). Gẫy đổ 01 cổng chào, 01 pano quảng cáo (xã Gia Huynh). Sạt lở bờ biển tại thôn Kê Gà, xã Tân Thành, huyện Hàm Thuận Nam dài 20 m, rộng 2 m. Sạt lở 400 m đường sỏi đỏ khu phố Lương Đông. Bể 01 nắp cống ngăn nước trên Quốc lộ 1A thuộc khu phố Lương Hòa.

Ước tổng giá trị thiệt hại ban đầu hơn 7 tỷ đồng.

8.2 Cháy, nổ: Trong tháng xảy ra 03 vụ cháy (giảm 02 so cùng kỳ), thiệt hại 11,7 triệu đồng, không xảy ra nổ.

8.3 Vi phạm môi trường: đã phát hiện 04 vụ vi phạm môi trường (tăng 02 vụ so cùng kỳ), đã xử phạt 144,2 triệu đồng. Tính đến 15/11 xảy ra 55 vụ cháy (tăng 16 vụ so cùng kỳ), tổng thiệt hại 14.128,8 triệu đồng; 35 vụ vi phạm môi trường (tăng 15 vụ cùng kỳ), đã xử phạt 1.860 triệu đổng./.

CTK Bình Thuận




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/