TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI
Tình hình kinh tế xã hội tháng 4 năm 2018

Diện tích gieo trồng vụ đông xuân 2017-2018 đạt 48.993 ha, đạt 106,5% kế hoạch vụ và tăng 3,46% so với vụ cùng kỳ năm trước, sản lượng thuỷ sản tháng 4/2018 ước đạt 18.116,3 tấn, tăng 2,16% so cùng kỳ. Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4/2018 (tính theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.500,6 tỷ đồng, luỹ kế 4 tháng đạt 9.302,9 tỷ đồng (đạt 32,3% kế hoạch năm), tăng 12,39% so với cùng kỳ năm trước. Ước tháng 4/2018, thu ngân sách đạt 600 tỷ đồng. Luỹ kế 04 tháng đạt 3.083,8 tỷ đồng (đạt 36,28% dự toán năm), giảm 13,73% so với cùng kỳ năm trước…

I. Nông - Lâm - Thủy sản

1. Trồng trọt

* Cây hàng năm: Trọng tâm trong tháng tập trung thu hoạch các loại cây trồng vụ đông xuân 2017-2018 và chuẩn bị gieo trồng vụ hè thu. Tính đến ngày 15/4/2018, diện tích gieo trồng vụ đông xuân 2017-2018 đạt 48.993 ha, đạt 106,5% kế hoạch vụ và tăng 3,46% so với vụ cùng kỳ năm 2017, trong đó:

- Cây lúa, diện tích gieo trồng đạt 37.661 ha, đạt 113,1% kế hoạch vụ và tăng 7,53% so với cùng kỳ. Diện tích lúa đông xuân đã thu hoạch đạt khoảng 94% diện tích gieo trồng (35.370 ha), tăng 6,6% so cùng kỳ năm 2017.

- Cây bắp, diện tích gieo trồng đạt 3.124 ha, đạt 74,4% kế hoạch vụ, bằng 77,66% so với cùng kỳ.

- Cây trồng khác, diện tích cây trồng khác đạt 8.208 ha, bằng 98,80% so cùng kỳ năm trước.

* Cây lâu năm: Cây lâu năm trồng chính của tỉnh tiếp tục được các nhà vườn tiến hành chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, đang trong thời kỳ sinh trưởng tốt.

- Cây thanh long, được các nhà vườn tiếp tục chong đèn để nâng cao sản lượng, giá bán trên thị trường ổn định, có lãi cho người trồng thanh long. Đến ngày 20/4/2018 toàn tỉnh có 9.287,33 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap.

- Cây cao su, các nhà vườn tập trung chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh, xử lý bệnh vàng rụng lá, bệnh nấm hồng,… chuẩn bị cho kỳ thu hoạch mới.

- Cây điều, đang trong giai đoạn thu hoạch, giá đầu ra ổn định; với các vườn điều già cỗi, năng suất thấp, dần đang được thay thế bởi giống điều ghép cao sản cho năng suất cao tại các huyện Đức Linh, Hàm Tân.

- Cây tiêu, giá tiêu trên thị trường đang ở mức thấp, việc thường xuyên xuất hiện sâu bệnh, chưa có thuốc đặc trị, người trồng tiêu chưa phát triển thêm diện tích trồng mới.

- Các cây lâu năm còn lại, đang được chăm sóc và phát triển bình thường, diện tích biến động không đáng kể.

* Tình hình sâu bệnh:

+ Cây lúa, diện tích nhiễm rầy nâu là 1.388 ha, giảm 1.172,5 ha so với cùng kỳ năm 2017.

+ Thanh long, diện tích nhiễm bệnh đốm nâu trong kỳ là 495 ha, giảm 1.144,5 ha so với cùng kỳ năm 2017 (nguyên nhân giảm là do đã có thuốc đặc trị, trị được khoảng 80% bệnh; đang trong thời gian nắng, không mưa nên bệnh lây nhiễm ít). Bệnh thối rễ, teo tóp cành là 633 ha, tăng 306 ha so với cùng kỳ năm trước.

+ Tiêu, diện tích nhiễm bệnh chết nhanh, chết chậm là 692 ha.

+ Điều, bệnh thán thư gây hại với diện tích nhiễm 815 ha, bệnh sâu các loại 929 ha.

* Công tác thuỷ lợi:

- Tính đến ngày 09/04/2018, tổng diện tích tưới vụ đông xuân đạt 50.200 ha (đạt 98,8% kế hoạch vụ), trong đó cây lúa và cây màu 32.172 ha (đạt 98% kế hoạch vụ); cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày 18.028 (đạt 100,2% kế hoạch vụ).

- Đến ngày 11/4/2018, lượng nước hữu ích còn lại trong các hồ chứa nước thủy lợi trên toàn tỉnh 114,59 triệu m3/259,40 triệu m3 dung tích hữu ích thiết kế, đạt 44,18%, trong đó hồ Tà Mon dưới cao trình mực nước chết. Lượng nước trữ tại hồ thủy điện Đại Ninh 85,74 triệu m3/251,73 triệu m3 dung tích hữu ích thiết kế, đạt 34,06%; hồ thủy điện Hàm Thuận 212,50 triệu m3/522,50 triệu m3 dung tích hữu ích thiết kế, đạt 40,67%.

2. Chăn nuôi

- Chăn nuôi trâu, bò trong tháng ổn định. Thời điểm 15/4/2018 toàn tỉnh ước có 8.968 con trâu, giảm 0,11% so với cùng kỳ; đàn bò đạt 164.490 con, tăng 1% so với cùng kỳ. Công ty TNHH Thông Thuận tại huyện Bắc Bình đã áp dụng nuôi công nghệ cao với số lượng 2.000 con bò lai.

- Chăn nuôi lợn, giá thịt lợn hơi trên thị trường có dấu hiệu tăng trở lại, tuy nhiên yếu tố ổn định vẫn chưa có nên nhiều hộ nuôi vẫn chưa dám tái đàn. Các trang trại, gia trại vẫn tiếp tục duy trì phát triển nhưng có khuynh hướng không mở rộng quy mô. Thời điểm 15/4/2018 toàn tỉnh ước có 249.974 con lợn giảm 4,75% so với cùng kỳ.

- Chăn nuôi gia cầm ổn định, tổng đàn được duy trì tốt, thời điểm 15/4/2018 toàn tỉnh ước có 2.712,5 ngàn con gia cầm tăng 3,75% so với cùng kỳ.

- Công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được triển khai thực hiện tốt, không có dịch bệnh nguy hiểm xảy ra trên địa bàn tỉnh từ đầu năm đến nay. Hoạt động kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ được kiểm tra thường xuyên, liên tục.

3. Lâm nghiệp

- Đây là tháng mùa khô, vì thế diện tích rừng trồng mới không phát sinh. Để tăng cường công tác bảo v rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng trong thời kỳ cao điểm mùa khô năm 2018, UBND tỉnh đã có văn bản yêu cầu các sở, ngành, địa phương liên quan tiếp tục thực hin nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, UBND tỉnh liên quan đến công tác quản lý, bảo v rừng và giải pháp trong thời gian tới.

- Công tác phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện nhưng tình trạng cháy rừng vẫn xảy ra, cụ thể ngày 07/4/2018, đã xảy ra 01 vụ cháy rừng sản xuất tại Khu bảo tồn Thiên nhiên Tà Kóu thuộc địa bàn xã Hàm Minh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, với diện tích khoảng 5-7 ha, hiện trạng cháy chủ yếu cháy thảm thực bì, lá khô dưới tán rừng và cháy lướt dưới tán, do đó thiệt hại đối với cây rừng là không đáng kể.

- Tình hình vi phạm lâm luật vẫn tiếp diễn, trong tháng đã phát hiện vi phạm Luật bảo vệ phát triển rừng là 47 vụ, luỹ kế 4 tháng là 157 vụ. Số lâm sản bị tịch thu trong tháng là 51 m³ gỗ, 19 xe máy, 7 phương tiện khác. Luỹ kế 04 tháng số lâm sản bị tịch thu là 191 m3 gỗ, 48 chiếc xe máy và 33 phương tiện khác. Tổng số tiền thu nộp vào ngân sách nhà nước trong tháng 4/2018 là 944,1 triệu đồng, luỹ kế 04 tháng là 2.142 triệu đồng.

4. Thuỷ sản

- Sản lượng thuỷ sản tháng 4/2018 ước đạt 18.116,3 tấn, tăng 2,16% so cùng kỳ. Luỹ kế 04 tháng 60.695,2 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, đạt 27,28% kế hoạch năm (trong đó cá đạt 36.035,2 tấn, tăng 4,8% so cùng kỳ; tôm đạt 3.566,1 tấn, giảm 7,58%). Cụ thể:

+ Sản lượng nuôi trồng tháng 4/2018 ước đạt 1.179,9 tấn, tăng 2,26% so với cùng kỳ. Luỹ kế 04 tháng đạt 4.508,7 tấn, tăng 2,69% so cùng kỳ, đạt 36,21% kế hoạch năm.

+ Sản lượng khai thác thuỷ sản tháng 4/2018 ước đạt 16.936,4 tấn, tăng 2,15% so cùng kỳ. Luỹ kế 04 tháng đạt 56.186,5 tấn, tăng 2,05% so với cùng kỳ, đạt 26,76% kế hoạch năm, trong đó khai thác biển ước đạt 55.960,8 tấn tăng 2,05% so cùng kỳ; khai thác nội địa đạt 225,7 tấn, tăng 3,03% so cùng kỳ.

- Sản xuất giống thuỷ sản, duy trì ổn định, đảm bảo cung cấp nguồn giống cho thị trường trong và ngoài tỉnh. Sản lượng giống tháng 4 đạt 2.301,1 triệu con tăng 4,41% so tháng cùng kỳ, lũy kế 04 tháng đạt 8.114,5 triệu con tăng 4,19% so cùng kỳ. Trong đó, tôm giống đạt 2.300 triệu con tăng 4,4% so tháng cùng kỳ, lũy kế 04 tháng đạt 8.109 triệu con tăng 4,19% so với cùng kỳ.

- Công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản, được triển khai thường xuyên, nhằm ngăn chặn, phòng ngừa vi phạm trong khai thác và đánh bắt thủy, hải sản. Tuy nhiên, tình trạng khai thác giã cào, hoạt động sai tuyến diễn ra thường xuyên khiến nguồn lợi này ngày càng giảm. Số vụ vi phạm trong 04 tháng (tính từ ngày 01/01/2018 đến 12/4/2018) là 51 vụ. Trong đó, sử dụng tàu cá không đăng ký 01 vụ, hành nghề giã cào đáy sai vùng khai thác 08 vụ, hoạt động sai nghề 02 vụ, không có giấy phép khai thác thủy sản 01 vụ, không mang theo giấy chứng nhận đăng ký tàu cá 01 vụ, hành nghề lặn trái phép 22 vụ, không bằng máy thuyền trưởng 02 vụ, sử dụng kích điện trên tàu cá để khai thác thủy sản 04 vụ, giã cào bay sai vùng khai thác 02 vụ, khai thác sò lông nhỏ hơn quy định 01 vụ, không bằng máy thuyền trưởng 02 vụ.

- Công tác tuyên truyền về luật biển, an toàn hàng hải cam kết không đánh bắt vi phạm chủ quyền vùng biển nước ngoài cho ngư dân trong tỉnh luôn được chú trọng. Thời gian qua tình trạng khai thác trái phép ở vùng biển nước ngoài đã có dấu hiệu chuyển biến tích cực (năm 2016, 17 vụ; năm 2017, 6 vụ), tuy nhiên trong những tháng đầu năm 2018 đã xảy ra 3 vụ.

II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư

1. Công nghiệp

Giá trị sản xuất công nghiệp tháng 4/2018 (tính theo giá so sánh 2010) ước đạt 2.500,6 tỷ đồng, luỹ kế 4 tháng đạt 9.302,9 tỷ đồng (đạt 32,3% kế hoạch năm), tăng 12,39% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Công nghiệp khai khoáng 203,9 tỷ đồng (tăng 1,27%); công nghiệp chế biến chế tạo 4.852,4 tỷ đồng (tăng 4,47%); sản xuất và phân phối điện đạt 4.160,2 tỷ đồng (tăng 24,21%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 86,4 tỷ đồng (tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước).

Các sản phẩm sản xuất trong 4 tháng tăng so với cùng kỳ năm trước gồm: Muối hạt (tăng 4,1%), thủy sản đông lạnh (tăng 4,7%), thủy sản khô (tăng 9,16%), thức ăn gia súc (tăng 10,6%), nước khoáng (tăng 7,52%), quần áo may sẵn (tăng 23,88%), gạch các loại (tăng 10,26%), nước máy sản xuất (tăng 4,63%), điện (tăng 21,66%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (tăng 4,16%), giày dép các loại (tăng 28,81%). Sản phẩm giảm gồm: Cát sỏi các loại (giảm 2,23%), đá khai thác (giảm 1,32%), nước mắm (giảm 6,54%), hạt điều nhân (giảm 2,13%) và sơ chế mũ cao su (giảm  11,74% so với cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, sản xuất công nghiệp trong 04 tháng đầu năm tăng trưởng khá (tăng 12,39% so với cùng kỳ năm 2017); trong đó, nổi bật là ngành sản xuất và phân phối điện có mức tăng cao (tăng 24,21%) do các công ty sản xuất điện hoạt động ổn định và nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 4 bắt đầu phát điện thương phẩm nên đã tác động đến tốc độ tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, các ngành công nghiệp chế biến chế tạo và ngành cung cấp nước hoạt động ổn định; một số sản phẩm như thức ăn gia súc, nước khoáng, quần áo may sẵn, nước máy, đồ gỗ, giày dép các loại,.. tăng khá do nhận được nhiều đơn đặt hàng và các đơn vị tăng cường hoạt động sản xuất phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân và xuất khẩu. Riêng công nghiệp khai khoáng có mức tăng trưởng không đáng kể.

2. Đầu tư phát triển

Trong tháng, vốn đầu tư xây dựng cơ bản thực hiện từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ước đạt 242,4 tỷ đồng; lũy kế 04 tháng đầu năm đạt 573,2 tỷ đồng, tăng 51,4% so với cùng kỳ năm 2017. Cụ thể: Vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh trong 04 tháng ước thực hiện 418,9 tỷ đồng (tăng 50,9% so với cùng kỳ năm 2017); vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 135,3 tỷ đồng (tăng 55,1%); vốn ngân sách nhà nước cấp xã 19 tỷ đồng (tăng 38,2% so với cùng kỳ năm 2017).

* Tình hình chuẩn bị triển khai các dự án trọng điểm năm 2018: Theo Nghị quyết số 41/2017/NQ-HĐND ngày 15/12/2017 của Hội đồng nhân dân tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2018. Kết quả triển khai thực hiện các công trình, dự án trọng điểm đến cuối tháng 3/2018 như sau:

- Dự án Kênh tiếp nước Biển Lạc - Hàm Tân: Tổng mức đầu tư là 377 tỷ đồng, đầu tư từ nguồn vốn Trung ương hỗ trợ và ngân sách tỉnh. Kế hoạch vốn năm 2018: 40 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 102 triệu đồng, giải ngân 596 triệu đồng. Lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 240,9 tỷ đồng, giải ngân 240,8 tỷ đồng.

- Dự án phòng chống lũ lụt, chủ động ứng phó biến đổi khí hậu gắn với cải tạo môi trường sông Cà Ty: Đã lập xong báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư đoạn kè 400m với tổng mức đầu tư dự kiến là 44.839 triệu đồng. Kế hoạch 2018 chưa bố trí vốn.

- Khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá đảo Phú Quý: Tổng mức đầu tư dự án là 544,6 tỷ đồng. Khối lượng thực hiện trong tháng 3/2018 là 10,13 tỷ đồng, giải ngân 53,6 tỷ đồng. Lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 162,8 tỷ đồng, giải ngân 175,1 tỷ đồng.

- Dự án đường Lê Duẩn đoạn từ đường Trường Chinh đến đường Lê Hồng Phong: Tổng mức đầu tư là 417 tỷ đồng, đầu tư từ nguồn vốn ngân sách tập trung tỉnh và nguồn vốn xổ số kiến thiết. Kế hoạch vốn năm 2018: 70 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện và giải ngân từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 8,3 tỷ đồng; lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 212,4 tỷ đồng, giải ngân 212,4 tỷ đồng.

- Đường Hùng Vương (đoạn từ vòng xoay đại lộ Tôn Đức Thắng đến giáp cầu Hùng Vương):

+ Đoạn qua khu dân cư Hùng Vương II (đoạn 1): Chiều dài tuyến đường là 888,9m, tổng mức đầu tư 62,2 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 3,4 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện và giải ngân từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 1,1 tỷ đồng; lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 48,6 tỷ đồng.

+ Đoạn qua khu dân cư Hùng Vương II, giai đoạn 2B (đoạn 3): Chiều dài tuyến đường 366m, tổng mức đầu tư là 34.1 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 20 tỷ đồng (nguồn vốn ngân sách tỉnh). Khối lượng thực hiện và giải ngân từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 1,5 tỷ đồng; lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 19,6 tỷ đồng. Lũy kế giá trị giải ngân từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 8,36 tỷ đồng.

- Đường từ Cầu Hùng Vương đến đường ĐT 706B: Tổng mức đầu tư 285,99 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 55 tỷ đồng (vốn ngân sách tỉnh 50 tỷ và nguồn vốn xổ số kiến thiết 5 tỷ). Khối lượng thực hiện và giải ngân từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 26,6 tỷ đồng; lũy kế giá trị khối lượng thực hiện từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 96,7 tỷ đồng. Lũy kế giá trị giải ngân từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 92,4 tỷ đồng.

- Dự án đường Lê Duẩn đoạn từ đường Lê Hồng Phong đến đường Trần Hưng Đạo: Tổng mức đầu tư: 243,8 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 60 tỷ đồng (vốn ngân sách tỉnh 40 tỷ đồng, nguồn vốn xổ số kiến thiết 20 tỷ đồng). Khối lượng thực hiện và giải ngân từ đầu năm 2018 đến cuối tháng 3 là 30,2 tỷ đồng. Lũy kế giá trị giải ngân từ khởi công đến cuối tháng 3/2018 là 41,9 tỷ đồng.

- Dự án mở rộng đường từ Đá Ông Địa đến khu du lịch Hoàng Ngọc: Tổng chiều dài 6.009m, chiều rộng mặt đường 09 m, kinh phí đầu tư là 97 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 20 tỷ đồng (nguồn vốn xổ số kiến thiết). Đến cuối tháng 3/2018 đã bố trí cho dự án 29,2 tỷ đồng.

- Sân bay Phan Thiết: Tổng mức đầu tư là 1.694 tỷ đồng, triển khai hạng mục chính gồm: Hạng mục hàng không dân dụng và hạng mục sân bay quân sự. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng: Tổng diện tích thu hồi thực hiện dự án là 543 ha với 48 hộ và 06 tổ chức. Kết quả thực hiện:

+ Đã cơ bản thực hiện xong và bàn giao toàn bộ mặt bằng sân bay giai đoạn đến năm 2030 là 543 ha. Tổng kinh phí đã phê duyệt và thực hiện đến nay là 190,5 tỷ đồng.

+ Đã giải ngân hết kinh phí do Ủy ban Nhân dân tỉnh cấp tạm ứng từ năm 2012 là 41,4 tỷ đồng, và giải ngân hết kinh phí Bộ Quốc phòng cấp năm 2016, 2017 là 13 tỷ đồng. Năm 2018 Bộ Quốc phòng chưa bố trí vốn.

- Nhà hát và triển lãm văn hoá nghệ thuật tỉnh Bình Thuận: Tổng mức đầu tư là 200 tỷ đồng. Kế hoạch vốn năm 2018: 27 tỷ đồng (nguồn vốn xổ số kiến thiết).

3. Đăng ký kinh doanh

Từ ngày 15/3 đến 14/4/2018 đã cấp thành lập mới cho 250 trường hợp (tăng 2,6 lần so với cùng kỳ năm trước) với số vốn đăng ký 1.756 tỷ đồng. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 14/4, toàn tỉnh đã cấp thành lập mới cho 393 trường hợp (tính cả chi nhánh, văn phòng đại diện, điểm kinh doanh,...) với số vốn đăng ký 4.925,5 tỷ đồng (So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp và số vốn đăng ký đều tăng, trong đó số vốn đăng ký tăng hơn 2.400 tỷ đồng). Thông báo tạm ngừng hoạt động kinh doanh 10 doanh nghiệp, giải thể 22 doanh nghiệp (tăng 7 doanh nghiệp so cùng kỳ), giải quyết chuyển đổi loại hình hoạt động cho 14 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký trực tuyến 173 hồ sơ, chiếm 29,6% tổng số hồ sơ tiếp nhận xử lý (173/584 hồ sơ).

4. Đăng ký đầu tư

- Tình hình cấp phép đầu tư: Trong tháng 4 (tính đến ngày 15/4/2018) có 12 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư (cấp mới 10 và cấp điều chỉnh 02) với tổng diện tích đất 876 ha, tổng vốn đăng ký 10.162 tỷ đồng. Lũy kế từ đầu năm đến ngày 15/4, toàn tỉnh có 36 dự án đã được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, với diện tích 2.141 ha, vốn đầu tư 15.117 tỷ đồng.

- Khởi công xây dựng: Trong tháng 4 có 02 dự án khởi công.

- Dự án đi vào hoạt động kinh doanh: Trong tháng 4 không có dự án đi vào hoạt động kinh doanh, lũy kế từ đầu năm 2018 có 02 dự án đi vào hoạt động: Dự án chợ Phước Thể tại xã Phước Thể - huyện Tuy Phong (vốn đầu tư 12 tỷ đồng) và Dự án Trung tâm đào tạo và sát hạch cấp phép lái xe cơ giới đường bộ tại xã Tiến Thành - thành phố Phan Thiết (vốn đầu tư 50 tỷ đồng).

- Công tác rà soát các dự án: Trong tháng 4 năm 2018, thu hồi 06 dự án nông lâm, lũy kế từ đầu năm thu hồi 07 dự án (du lịch: 01, nông lâm: 06).

III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải

1. Thương mại, giá cả

Thời tiết đang vào hè, nắng nóng, nhu cầu về sử dụng các thiết bị giải nhiệt như quạt máy, máy điều hoà,... của người dân tăng lên, kết hợp với kỳ nghỉ lễ như Giỗ Tổ Hùng Vương, 30/4 và 1/5 và các ngày nghỉ cuối tuần, người dân nghỉ lễ tổ chức tiệc, mua sắm sẽ tăng lên, nắm bắt được các nhu cầu đó, các cửa hàng kinh doanh đồ điện lạnh, hàng may mặc,... bắt đầu trở nên nhộn nhịp, các mặt hàng phong phú cả về kiểu dáng và mẫu mã đã thu hút nhiều người tiêu dùng lựa chọn.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 4/2018 ước đạt 4.001 tỷ đồng, tăng 0,62% so tháng trước và tăng 10,86% so tháng cùng kỳ năm trước, luỹ kế 04 tháng ước đạt 16.601 tỷ đồng tăng 11,56% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá tháng 4/2018 ước đạt 2.659 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 0,36% và so với tháng cùng kỳ năm trước tăng 9,54%, luỹ kế 04 tháng đạt 11.036 tỷ đồng (tăng 11,18% so với 04 tháng năm trước); doanh thu dịch vụ tháng 4/2018 ước đạt 1.342 tỷ đồng, luỹ kế 04 tháng đạt 5.565 tỷ đồng (tăng 12,32% so với 04 tháng năm trước).

Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3/2018 giảm 0,39% so với tháng trước, tăng 3,45% so với tháng cùng kỳ năm trước và tăng 0,5% so với tháng 12 năm trước. Bình quân của 03 tháng đầu năm 2018 so với 03 tháng đầu năm 2017 tăng 3,2% (bình quân 03 tháng năm 2017/2016 tăng 4,8%), cho thấy việc bình ổn thị trường giá cả, hàng hoá trên địa bàn tỉnh ổn định, không có biến động nhiều. Diễn biến giá của các nhóm hàng chính trong tháng 3/2018 như sau: Lương thực tăng 0,21%; thực phẩm giảm 1,14%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,14%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,17%; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,61%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,07%; nhóm giao thông giảm 0,62%, nhóm Bưu chính viễn thông giảm 0,13%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch giảm 0,38%.

Trong tháng, đã tổ chức phiên chợ hàng Việt về huyện đảo Phú Quý, nằm trong khuôn khổ Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia nhằm mục tiêu tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động; đồng thời tạo điều kiện cho người dân vùng hải đảo có cơ hội tiếp cận, mua sắm các sản phẩm, hàng hoá mang thương hiệu Việt có chất lượng tốt với giá cả hợp lý, giúp các doanh nghiệp tiếp cận và mở kênh phân phối đến người tiêu dùng. Phiên chợ được tổ chức trong 03 ngày, với sự tham gia khoảng 20 doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, các mặt hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng: lương thực, thực phẩm, đường, dầu ăn, nước mắm, nước giải khát, quần áo thời trang trẻ em và người lớn, bếp ga, giày dép, hoá mỹ phẩm, các dịch vụ viễn thông,… những mặt hàng này được sản xuất tại Việt Nam. Ngoài ra còn có những mặt hàng phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp như ngư lưới cụ, phân bón, giống cây trồng,…

2. Du lịch

Trong tháng 4 có các ngày nghỉ lễ như Giỗ tổ Hùng Vương, 30/4 và 01/5, và đây cũng là thời điểm bước vào mùa du lịch cao điểm đón khách, ngành du lịch của tỉnh đã và đang sắp xếp lại các hàng quán ở khu vực trọng điểm về du lịch. Công tác tăng cường kiểm tra, đẩy mạnh thực hiện nhiều giải pháp đảm bảo môi trường du lịch an toàn, sạch đẹp chào đón du khách đến tỉnh, đồng thời các chương trình kích cầu du lịch cũng đang được thực hiện nhằm thu hút khách du lịch đến tỉnh.

Dự tính trong tháng 4/2018 tổng số lượt khách phục vụ ước đạt 428,4 ngàn lượt khách tăng 1,8% so tháng trước và tăng 11,76% so với tháng cùng kỳ năm trước, ngày khách phục vụ đạt 689,1 ngàn ngày khách tăng 1,88% so với tháng trước và tăng 12,81% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 04 tháng năm 2018 ước đạt 1.756,5 ngàn lượt khách, tăng 11,57% so với cùng kỳ năm trước, ngày khách ước đạt 2.853,9 ngàn ngày khách, tăng 12,05% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu du lịch trong tháng 4/2018 ước đạt 1.057 tỷ đồng tăng 1,67% so với tháng trước, và tăng 18,9% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 04 tháng năm 2018 ước đạt 4.231 tỷ đồng tăng 18,84% so với cùng kỳ năm trước.

* Tình hình khách quốc tế: Số lượt khách quốc tế tháng 4/2018 ước đạt 54.857 lượt khách (tăng 14,14% so với cùng kỳ năm trước). Số ngày khách quốc tế lưu trú ước đạt 164.292 ngày khách (tăng 16,36% so với cùng kỳ năm trước). Cơ cấu tỷ lệ khách quốc tế đến Bình Thuận: khách Trung Quốc vẫn chiếm tỷ trọng cao trong tháng 3 (chiếm 25,52%), nhưng có sự sụt giảm so với tháng 02 (chiếm 34,15%); khách Nga cũng có sự thay đổi từ 24,35% trong tháng 2 xuống 23,37% trong tháng 3/2018; đáng chú ý là tỷ lệ du khách các nước như Hàn Quốc, Đức, Anh, Hà Lan, Mỹ, Pháp có tỷ lệ du khách đến tỉnh tăng so với tháng 02/2018, đây là các thị trường khách du lịch rất có tiềm năng, ngành du lịch của tỉnh cần chú trọng đến các thị trường khách du lịch này.

3. Xuất, nhập khẩu

- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 4/2018 ước đạt 34,21 triệu USD; luỹ kế 04 tháng đạt 122,86 triệu USD (tăng 13,92% so 04 tháng năm trước), trong đó nhóm hàng thuỷ sản đạt 41,15 triệu USD (tăng 10,56% so với 04 tháng năm trước), hàng nông sản đạt 4,43 triệu USD (giảm 30,29%), hàng hoá khác 77,28 triệu USD (tăng 20,24%), trong đó hàng may mặc 53,13 triệu USD (tăng 22,3%).

- Xuất khẩu trực tiếp 04 tháng đầu năm 2018 đạt 116,89 triệu USD (tăng 13,53% so với cùng kỳ năm trước), trong đó:

+ Xuất sang thị trường Châu Á đạt 78,23 triệu USD (tăng 16,59% so với cùng kỳ năm trước);

+ Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 16,39 triệu USD (tăng 14,32% so với cùng kỳ năm trước);

+ Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 19,37 triệu USD (giảm 1,57% so với cùng kỳ năm trước).

- Ủy thác xuất khẩu 04 tháng đầu năm 2018 ước đạt 5,96 triệu USD, tăng 22,22% so với cùng kỳ. Chủ yếu tăng ở mặt hàng mực tươi đông lạnh, hàng may mặc.

- Xuất khẩu dịch vụ du lịch tháng 4/2018 ước đạt 19,786 triệu USD, tăng 12,81% so cùng kỳ năm trước, luỹ kế 04 tháng đạt 69,786 triệu USD, tăng 15,39% so cùng kỳ năm trước.

- Nhập khẩu 04 tháng đầu năm 2018 ước đạt 93,19 triệu USD giảm 76,37% so với cùng kỳ, chủ yếu giảm ở mặt hàng máy móc thiết bị.

Nhìn chung, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đầu năm 2018 tăng trưởng khá. Nhóm hàng thủy sản tăng 10,56% so với cùng kỳ do có nhiều đơn đặt hàng vào những tháng đầu năm. Nhóm hàng hoá khác có mức tăng trưởng cao 20,24% so với cùng kỳ. Mặt hàng dệt may và giày dép có mức tăng cao lần lượt là 22,30% và 29,39%, mặt hàng sản phẩm gỗ tuy có tăng so với cùng kỳ nhưng mức tăng không cao 2,78%, mặt hàng giấy và các sản phẩm từ giấy 04 tháng đầu năm có dấu hiệu chựng lại do giảm sút về đơn hàng. Nhóm hàng nông sản giảm mạnh so với cùng kỳ, chủ yếu do mặt hàng cao su 04 tháng đầu năm thị trường tiêu thụ chưa nhiều. Chiếm tỷ trọng lớn trong nhóm hàng nông sản vẫn là mặt hàng trái thanh long xuất khẩu có mức tăng 15% so với cùng kỳ.

4. Giao thông vận tải

Vận tải hành khách, ước tháng 4/2018 đã vận chuyển 1.946,9 nghìn hành khách và luân chuyển 97,75 triệu hk.km. Lũy kế 04 tháng, đã vận chuyển 7.741,3 nghìn nh khách (đạt 32,2% kế hoạch năm, tăng 10,37% so với cùng kỳ năm trước) và luân chuyển 388,23 triệu hk.km (đạt 32,24% kế hoạch năm, tăng 10,65% so với cùng kỳ). Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4/2018 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 1.943,5 nghìn hành khách (lũy kế 04 tháng đạt 7.727,6 nghìn hành khách, tăng 10,38% so với cùng kỳ năm trước), vận chuyển hành khách đường thủy đạt 3,43 nghìn hành khách (lũy kế 04 tháng đạt 13,64 nghìn hành khách,tăng 7,74% so với cùng kỳ); luân chuyển hành khách đường bộ đạt 97,39 triệu hk.km (lũy kế 04 tháng đạt 386,82 triệu hk.km, tăng 10,66% so với cùng kỳ), luân chuyển hành khách đường thủy đạt 0,36 triệu hk.km (lũy kế 04 tháng đạt 1,41 triệu hk.km, tăng 7,47% so với cùng kỳ năm trước).

Vận tải hàng hoá, ước tháng 4/2018 vận chuyển hàng hoá đạt 771,82 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 41,77 triệu tấn.km. Lũy kế 04 tháng, đã vận chuyển 3.036 nghìn tấn hàng hoá (đạt 32,82% kế hoạch năm, tăng 7,11% so với cùng kỳ năm trước), luân chuyển hàng hoá đạt 164,64 triệu tấn.km (đạt 32,6% kế hoạch năm, tăng 7,15% so với cùng kỳ). Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4/2018, vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 770,9 nghìn tấn (lũy kế 04 tháng đạt 3.032,4 nghìn tấn, tăng 7,11% so với cùng kỳ năm trước); vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,92 nghìn tấn (lũy kế 04 tháng đạt 3,62 nghìn tấn, tăng 7,42% so với cùng kỳ); luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 41,68 triệu tấn.km (lũy kế 04 tháng đạt 164,26 triệu tấn.km, tăng 7,15% so với cùng kỳ), luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,097 triệu tấn.km (lũy kế 04 tháng đạt 0,38 triệu tấn.km, tăng 7,35% so với cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, trong tháng 4/2018, công tác bảo đảm giao thông, lưu thông đi lại được thực hiện tốt, không có tuyến đường nào ách tắc. Vận tải đường bộ, đường biển ổn định, đáp ứng kịp thời nhu cầu đi lại của nhân dân. Công tác tuần tra, kiểm soát được duy trì thường xuyên, đã kịp thời xử lý ngăn chặn xe quá tải, quá khổ lưu thông trên các tuyến đường, giải tỏa các tụ điểm lấn chiếm lòng lề đường nhằm đảm bảo tối đa an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh.

IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng

1. Thu ngân sách

Ước tháng 4/2018, thu ngân sách đạt 600 tỷ đồng. Luỹ kế 04 tháng đạt 3.083,8 tỷ đồng (đạt 36,28% dự toán năm), giảm 13,73% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thu nội địa (trừ dầu) đạt 2.055,9 tỷ đồng (đạt 34,2% dự toán năm), giảm 9,2% so với cùng kỳ năm trước. Riêng thu thuế, phí 1.882,4 tỷ đồng, đạt 35,4% dự toán năm (tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước); thu tiền sử dụng đất 173,4 tỷ đồng, đạt 24,8% dự toán năm (giảm 74,4%); thu thuế xuất nhập khẩu 417 tỷ đồng, đạt 41,7% dự toán năm (giảm 36,9%) và thu dầu thô 611 tỷ đồng, đạt 41,3% dự toán năm (giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước).

Dự ước các khoản thu tăng (giảm) của 4 tháng đầu năm 2018 so với cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 344,2 tỷ đồng (tăng 50,1% so với cùng kỳ năm trước), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 256,2 tỷ đồng (tăng 2,51%), thu ngoài quốc doanh 332,3 tỷ đồng (tăng 22,26%), thuế thu nhập cá nhân 157,6 tỷ đồng (tăng 24,81%), thuế bảo vệ môi trường 134,7 tỷ đồng (giảm 17,03%), lệ phí trước bạ 71,1 tỷ đồng (tăng 42,88%), thu từ các loại phí, lệ phí 44,4 tỷ đồng (tăng 7,24%), thu xổ số kiến thiết 356,4 tỷ đồng (tăng 3,14%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 28 tỷ đồng (tăng 52,36%), thu tiền sử dụng đất 173,4 tỷ đồng (giảm 74,43%), thu từ dầu thô 611 tỷ đồng (giảm 5,75%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 417 tỷ đồng (giảm 36,9%).

Riêng khối huyện, thị xã, thành phố; kết quả thu 4 tháng đầu năm 2018 ước đạt 788 tỷ đồng (đạt 42,7% dự toán năm), tăng 24% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Phan Thiết thu 364,6 tỷ đồng (đạt 43,8% dự toán năm, tăng 19,2% so cùng kỳ); La Gi: 57,5 tỷ đồng (đạt 46,8% dự toán, tăng 55,6%); Tuy Phong: 66,8 tỷ đồng (đạt 35,4% dự toán, tăng 14,2%); Bắc Bình: 31,5 tỷ đồng (đạt 39,8% dự toán, tăng 2,4%); Hàm Thuận Bắc: 102,2 tỷ đồng (đạt 49,4% dự toán, tăng 66,9%); Hàm Thuận Nam: 55,9 tỷ đồng (đạt 38,5% dự toán, tăng 48,2%); Tánh Linh: 35,6 tỷ đồng (đạt 42,9% dự toán, tăng 29,8%); Đức Linh: 41,8 tỷ đồng (đạt 46,5% dự toán, tăng 0,9%); Hàm Tân: 23,9 tỷ đồng (đạt 31,4%, giảm 16,7%) và Phú Quý thu 8,3 tỷ đồng (đạt 41,3% dự toán, tăng 18,2%).

2. Chi ngân sách

Ước chi ngân sách địa phương trong tháng 4 là 560 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng: 3.343,9 tỷ đồng, đạt 37,2% dự toán năm (giảm 12,2% so với cùng kỳ 2017); trong đó: Chi đầu tư phát triển 878,4 tỷ đồng, đạt 45,09% dự toán năm (tăng 26,7%), chi thường xuyên 1.525,6 tỷ đồng, đạt 27,07% dự toán năm (giảm 1,3% so với cùng kỳ 2017). Trong chi ngân sách, đã bám sát theo Nghị quyết HĐND tỉnh, Quyết định giao dự toán của Chủ tịch UBND tỉnh. Triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, nhất là kinh phí tổ chức hội nghị, hội thảo, công tác nước ngoài, kinh phí mua sắm ô tô và trang thiết bị đắt tiền. Đồng thời, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý ngân sách nhà nước.

3. Hoạt động tín dụng

Các tổ chức tín dụng tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Mặt bằng lãi suất tương đối ổn định so với đầu năm. Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,3-5,5%/năm, kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng là 5,3-7,1%/năm, kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 6-7,3%/năm. Lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 6-6,5%/năm, các lĩnh vực khác từ 9-10%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10,5-11,5%/năm.

Hoạt động huy động vốn, tiếp tục đẩy mạnh huy động vốn để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Đến 31/3/2018, nguồn vốn huy động đạt 32.325 tỷ đồng, tăng 5% so với đầu năm và tăng 2,89% so với tháng trước. Ước đến 30/4/2018: Vốn huy động đạt 32.768 tỷ đồng, tăng 6,5% so với đầu năm.

Hoạt động tín dụng, đến ngày 31/3/2018, tổng dư nợ cho vay đạt 39.483 tỷ đồng, tăng 1,94% so với đầu năm và tăng 1,17% so với tháng trước. Ước đến 30/4/2018, dư nợ đạt 39.893 tỷ đồng, tăng 3% so với đầu năm.

- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông đạt 22.830 tỷ đồng (chiếm 57,8% tổng dư nợ); dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 870 tỷ đồng (chiếm 2,2% tổng dư nợ); dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 7.103 tỷ đồng (chiếm 18% tổng dư nợ). Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.331 tỷ đồng/126.882  khách hàng.

- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Đã nhận 126 hồ sơ của khách hàng có nhu cầu vay đóng tàu theo Nghị định 67, trong đó đã ký hợp đồng tín dụng với 121 hồ sơ. Tổng số tiền cam kết cho vay theo hợp đồng tín dụng là 1.100 tỷ đồng, đã giải ngân được 1.087 tỷ đồng, dư nợ là 1.047,7 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 302 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 732,4 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 13,3 tỷ đồng).

- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 404 tỷ đồng phục vụ sản xuất tôm giống, nuôi tôm thịt, mua bò và chăm sóc bò giống, trồng thanh long.

- Cho vay hỗ trợ nhà ở: Dư nợ cho vay hỗ trợ nhà ở là 38,6 tỷ đồng/111 khách hàng, trong đó dư nợ cho vay mua nhà ở xã hội là 2,3 tỷ đồng/13 khách hàng, cải tạo và sửa chữa nhà ở là 36,3 tỷ đồng/98 khách hàng.

- Cho vay hỗ trợ đổi mới công nghệ, thiết bị đối với các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm lợi thế của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2016-2020 theo QĐ số 16/2017/QĐ-UBND ngày 16/5/2017: Dư nợ cho vay đạt 31 tỷ đồng/48 khách hàng (lãi suất cho vay từ 7-8,5%/năm).

Chất lượng tín dụng: Các tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện các giải pháp để ngăn chặn và xử lý nợ xấu, trong đó thực hiện đánh giá lại chất lượng và khả năng thu hồi của các khoản nợ để có biện pháp xử lý, thu nợ. Đến 31/3/2018, nợ xấu trên địa bàn là 463 tỷ đồng, chiếm 1,17% tổng dư nợ, tăng 0,33% so với đầu năm.

Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục triển khai thực hiện Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2016-2020; thực hiện các giải pháp nhằm tăng cường đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử và thanh toán thẻ theo Kế hoạch 630/QĐ-NHNN ngày 31/3/2017 nhằm tạo điều kiện thúc đẩy, phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt công tác điều hòa tiền mặt, đảm bảo hệ thống thanh điện tử liên ngân hàng. Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/3/2018, trên địa bàn có 161 máy ATM, tăng 06 máy so với đầu năm và 1.379 máy POS, tăng 58 máy so với đầu năm, hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.

Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn hoạt động ổn định. Các tổ chức tín dụng đã bám sát sự điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước để ấn định tỷ giá mua, bán cho phù hợp. Nhìn chung, nhu cầu mua bán ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong 03 tháng đầu năm đạt 357 triệu USD (tăng 70% so với cùng kỳ năm trước), trong đó doanh số chi trả kiều hối đạt 35 triệu USD (tăng 75% so với cùng kỳ năm trước).

Nhìn chung, hoạt động tín dụng trên địa bàn tiếp tục ổn định. Trong tháng, tỉnh tiếp tục triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách và các văn bản chỉ đạo của trung ương và địa phương liên quan đến hoạt động ngân hàng như: Tiếp tục triển khai Chương trình kết nối ngân hàng – doanh nghiệp (Công văn 2215/NHNN-VP ngày 06/4/2018); triển khai thực hiện Quyết định 241/QĐ-TTg ngày 23/02/2018 về việc phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công như: Thuế, điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội,... Đồng thời, thường xuyên theo dõi, nắm bắt, hỗ trợ và giải quyết kịp thời các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của các tổ chức tín dụng.

V. Các vấn đề xã hội

1. Hoạt động văn hoá nghệ thuật

Trong tháng, đã tổ chức lễ hội, tuyên truyền, cổ động chính trị, văn nghệ quần chúng gắn liền với tinh thần giáo dục lòng yêu nước, truyền thống lịch sử của dân tộc tiêu biểu như: Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương, kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Ngày Quốc tế lao động; 87 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (26/3); 72 năm Ngày Thể thao Việt Nam (27/3); Ngày chạy Olympic vì sức khỏe cộng đồng; Hội khỏe Phù Đổng tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII/2018,… với 4.320 giờ phát thanh xe loa phóng thanh, cắt dán 5.765 m băng rôn khẩu hiệu, kẻ vẽ 4.991 m2 pa nô, hơn 4.815 m cờ dây và 3.267 cờ các loại. Đội Tuyên truyền lưu động biểu diễn 11 buổi tuyên truyền phòng, chống tội phạm, ma túy, với kịch bản “Quay đầu là bờ” tại huyện Hàm Thuận Bắc, Đức Linh, Phú Quý và triển lãm lưu động ảnh tư liệu “Bác Hồ với Quốc hội và Hội đồng Nhân dân” phục vụ nhân dân huyện Phú Quý.

- Hoạt động văn hoá, nghệ thuật quần chúng về đêm nhạc tưởng nhớ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và Biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, chào mừng kỷ niệm 43 năm ngày giải phóng quê hương Bình Thuận đã thu hút đông đảo người xem, cổ vũ.

- Công tác bảo tồn, bảo tàng, phát huy các giá trị lịch sử văn hoá đã đem lại cho du khách tham quan, thưởng lãm nhiều trãi nghiệm quý báu về con người và văn hoá Bình Thuận. Trong tháng, tổng lượt khách tham quan các bảo tàng, Ban Quản lý di tích Tháp Pô Sah Inư Trung tâm Trưng bày Văn hoá Chăm ước đạt 45.580 lượt khách. Hoạt động thư viện, trong tháng đã cấp mới 70 thẻ bạn đọc; phục vụ cho 3.235 lượt bạn đọc.

2. Hoạt động thể thao

- Các hoạt động thể dục, thể thao được tổ chức với nhiều hình thức đa dạng, phong phú thu hút nhiều người tham dự. Tổ chức thành công Hội khỏe Phù Đổng tỉnh Bình Thuận lần thứ XIII năm 2018; giải Bóng rổ mở rộng năm 2018 tại xã Hải Ninh, huyện Bắc Bình; tổ chức giải Bóng đá tập huấn hạng Nhì tỉnh Bình Thuận; giải Bóng chuyền bãi biển nam, nữ và giải Việt dã – Đại hội TDTT tỉnh Bình Thuận lần thứ VIII năm 2018. Tham gia giải Taekwondo học sinh toàn quốc lần thứ VIII năm 2018 tại Tp. Hồ Chí Minh (đạt 03 HCV, 02 HCB, 15 HCĐ).

- Tham gia thi đấu giải Việt dã Báo Tiền Phong năm 2018 (đạt 01 HCB), giải vô địch Câu lạc bộ toàn quốc năm 2018 (đạt 04 HCV, 01 HCĐ); giải vô địch Karatedo miền Nam mở rộng năm 2018 (đạt 01 HCV, 02 HCĐ). Luỹ kế từ đầu năm đến tháng 4/2018, tổng số huy chương đạt được 17/90 huy chương đạt 19% kế hoạch, trong đó 09/26 HCV (đạt 35% kế hoạch), 02/24 HCB (đạt 8% kế hoạch), 06/40 HCĐ (đạt 15% kế hoạch).

3. Giáo dục

Công tác giáo dục và đào tạo tiếp tục duy trì ổn định dạy và học ở từng cấp học trên toàn tỉnh.

- Từ ngày 27 – 28/3/2018, đã tổ chức thành công kỳ thi học sinh giỏi lớp 9 cấp tỉnh năm học 2017 – 2018; kết quả có 769 học sinh đạt giải (tăng 203 giải so với năm học trước), cụ thể có 19 giải nhất, giảm 07 giải; 84 giải nhì, tăng 32 giải; 666 giải ba, tăng 188 giải.

- Kỳ thi Olympic truyền thống 30/4 lần thứ 24 năm học 2017-2018, được tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh (từ ngày 06/4 - 08/4/2018). Kết quả có 42 huy chương, đứng thứ 7/64 đơn vị tham dự (so với năm học 2016-2017 giảm 2 bậc), cụ thể có  18 huy chương vàng, giảm 07 giải; 14 huy chương bạc, tăng 01 giải; 10 huy chương đồng, tăng 03 giải.

- Kỳ thi Olympic tháng 4 Tp. Hồ Chí Minh mở rộng lần IV năm 2018, có 03 trường THPT của tỉnh dự thi, có 80 học sinh đạt Huy chương (tăng 34 giải so với năm học trước), cụ thể 15 huy chương vàng; 24 huy chương bạc; 41 huy chương đồng.

- Các trường trên địa bàn toàn tỉnh tiếp tục triển khai làm tốt công tác ôn tập kiến thức, phụ đạo học sinh yếu, kém; hướng dẫn tổ chức kiểm tra học kỳ II năm học 2017-2018. Triển khai tốt cho công tác chuẩn bị các điều kiện phục vụ kỳ thi Trung học phổ thông và tuyển sinh đại học, cao đẳng Quốc gia năm 2018. Việc triển khai xây dựng Kế hoạch tổ chức Cụm thi tại địa phương vẫn như năm 2017, theo đó, năm 2018, toàn tỉnh thành lập 01 Hội đồng thi chung (cả thi tốt nghiệp và xét tuyển sinh vào các trường đại học và cao đẳng); tổ chức trên địa bàn Tp. Phan Thiết và các huyện, thị xã trong tỉnh, dự kiến có 26 điểm thi với khoảng 12.500 thí sinh.

4. Y tế (từ ngày 15/3/2018 - 15/4/2018)

- Trong tháng, các biện pháp nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh và các hoạt động giám sát, các biện pháp phòng chống nhất là các bệnh truyền nhiễm như cúm A H1N1, H5N1, H7N9, sốt xuất huyết, sốt rét, bệnh tay chân miệng, bệnh Zika,... được các đơn vị y tế triển khai đồng bộ, thực hiện tốt và có chiều hướng giảm so với tháng trước.

- Có 41 cas mắc sốt xuất huyết (giảm 25,4% so với tháng trước) không có trường hợp tử vong; 38 cas mắc tay chân miệng (giảm 19% so với tháng trước) không có trường hợp tử vong; 09 cas mắc sốt rét (giảm 18% so với tháng trước) không có trường hợp tử vong.

- Không phát hiện thêm bệnh nhân phong mới, số bệnh nhân đang quản lý 462 bệnh nhân; phát hiện bệnh nhân lao phổi AFB(+) mới98 bệnh nhân; số người nhiễm HIV mới phát hiện là 09 bệnh nhân, luỹ kế 1.348 bệnh nhân, số chuyển AIDS mới 06 bệnh nhân, luỹ kế 968 bệnh nhân, tử vong 02 bệnh nhân, luỹ kế 507 bệnh nhân.

- Công tác bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, kế hoạch hoá gia đình tiếp tục được duy trì; số trẻ em dưới 01 tuổi được tiêm chủng đầy đủ là 2.433 em (đạt tỷ lệ 10,2%); phụ nữ có thai được tiêm UV2+ là 1.971 phụ nữ (đạt tỷ lệ 8,3%); số người mới đặt vòng 520 trường hợp; số mới triệt sản 16 trường hợp.

- Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm, từ đầu năm đến nay không có vụ ngộ độc xảy ra.

- Công tác khám chữa bệnh, được các bệnh viện tuyến tỉnh, huyện đáp ứng được nhu cu phc vchăm sóc sức khoẻ cho nhân dân.

5. Lao động xã hội, chính sách

- Trong tháng 4/2018, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm cho khoảng 2.170 lao động, luỹ kế 04 tháng đạt 7.850 lao động (đạt 32,71% so kế hoạch năm), trong đó thông qua các Chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã giải quyết được 6.140 lao động.

- Tính đến ngày 11/04/2018, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tuyển mới đào tạo nghề cho 1.188 người, đạt 10,8% so với kế hoạch năm và bằng 81% so với cùng kỳ năm 2017.

- Công tác vận động đóng góp Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cấp tỉnh trong tháng 4/2018 được 50 triệu đồng; đã giải quyết trợ cấp thất nghiệp cho 580 người, luỹ kế 04 tháng là 1.903 người; số người có quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 269 người, luỹ kế 04 tháng là 1.669 người; số người có quyết định hỗ trợ học nghề 31 người, luỹ kế 04 tháng là 47 người.

- Công tác chính sách người có công, thực hiện chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 43 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công; trợ cấp thờ cúng cho 36 người thờ cúng liệt sỹ; cấp Bảo hiểm y tế cho 91 trường hợp.

6. Hoạt động bảo hiểm

 Tính đến ngày 31/3/2018, toàn tỉnh có 88.795 người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, đạt 95,6% kế hoạch năm 2018 (tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2017); số người tham gia BHXH tự nguyện là 794 người, đạt 67,2% kế hoạch (tăng 21,5%). Số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là 79.236 người, đạt 95,4% kế hoạch (tăng 4,1%); số người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) là 917.449 người (gồm thân nhân sỹ quan 10.964 thẻ), đạt 89,6% kế hoạch (tăng 9,5%). Tỷ lệ bao phủ BHYT toàn dân đạt 78,6% (bao gồm 56.495 thẻ BHYT của người dân Bình Thuận học tập và lao động ở ngoài tỉnh). Một số địa phương có tỷ lệ bao phủ BHYT cao là Phú Quý đạt 101,1%, Tánh Linh đạt 79%, Đức Linh đạt 78,2%, Hàm Thuận Nam đạt 78,1%; các địa phương đạt tỷ lệ thấp là Bắc Bình đạt 67,4%, Tuy Phong đạt 70,4%, Phan Thiết đạt 70,9%.

Số người tham gia BHYT so với cuối năm 2017 giảm hơn 26.500 người, trong đó một số đối tượng giảm mạnh, cụ thể: Người thuộc diện hộ nghèo giảm gần 7.700 người; người thuộc hộ gia đình cận nghèo giảm trên 7.300 người; người dân tộc thiểu số giảm trên 400 người; học sinh, sinh viên giảm trên 11.500 người.

7. Tai nạn giao thông

Trong tháng 3/2018 (từ 16/02/2018 đến 15/03/2018), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:

- Số vụ tai nạn giao thông 28 vụ (so với tháng trước giảm 09 vụ). So với cùng kỳ năm trước giảm 17 vụ. Luỹ kế 04 tháng 111 vụ (giảm 18 vụ so với cùng kỳ năm trước.

- Số người bị thương 22 người (so với tháng trước giảm 6 người và so với cùng kỳ năm giảm 6 người). Luỹ kế 04 tháng 76 người (giảm 14 người so với cùng kỳ năm trước).

- Số người chết 18 người (so với tháng trước tăng 01 người). So với cùng kỳ năm trước giảm 05 người. Luỹ kế 04 tháng 61 người (so với cùng kỳ giảm 02 người).

Tình hình tai nạn giao thông đường bộ giảm cả 03 mặt về số vụ, số người chết và số người bị thương. Không xảy ra tai nạn giao thông đường thủy và đường sắt. Mặc dù, tình hình tai nạn giao thông đã có sự cải thiện nhất định nhưng số vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng xảy ra còn nhiều. Điều quan trọng nhất hiện nay là ý thức của người tham gia giao thông. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra ở khu vực ngoài đô thị, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, qua đường không quan sát, có rượu bia khi tham gia giao thông.

8. Thiên tai, cháy nổ, vi phạm môi trường

Đang trong giai đoạn vào mùa hanh khô, nắng nóng kéo dài, nhu cầu sử dụng các thiết bị gia dụng trong sinh hoạt của người dân cũng tăng cao. Việc chấp hành nghiêm các quy định về phòng chống cháy nổ, vẫn còn không ít hộ gia đình, cơ sở kinh doanh thiếu cảnh giác, tiềm ẩn nguy cơ cháy, nổ xảy ra.

Trong tháng trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 07 vụ cháy, nổ, tuy nhiên không có người chết hoặc bị thương; giá trị tài sản bị thiệt hại khoảng 153 triệu đồng. Đã phát hiện 02 vụ vi phạm về môi trường, đã xử phạt 370 triệu đồng. Tính chung 04 tháng đầu năm xảy ra 29 vụ cháy, tổng thiệt hại 5,96 tỷ đồng; 14 vụ vi phạm môi trường, đã xử phạt 1,4 tỷ đồng./.

CTK Bình Thuận

 




TIN TỨC CÙNG LOẠI KHÁC:













 
 
 
 
 
 
Trang: 
/